Thời Kỳ Cấm Rượu
Không chỉ ở phương Đông mà ngay cả ở phương Tây, wine is the drink of the gods, rượu là món quà của thượng đế. Điếu thuốc, miếng trầu, ly rượu là đầu câu chuyện. Gặp gỡ thì cụng ly, chia tay thì ly cụng. Vui thì cạn ly, buồn thì ly cạn. Ly rượu mừng ngày chào đời và giọt cuối cùng cho tang lễ. Ly rượu trải dài từ đầu xuân hân hoan đến tàn đông năm cũ. Vậy mà có một thời gian dài hơn 13 năm, đất nước Mỹ phải trải qua bao sóng gió từ những ly rượu làm sóng sánh lịch sử. Thời kỳ cấm rượu.
Sau những năm tháng nhọc nhằn mở mang đất nước về miền Tây hoang dã, một cuộc nội chiến tan hoang, những đường hỏa xa đã lót xong, những người lính của 2 miền trở về quê nhà sau khi đã quen men rượu đầu đời trong cuộc chiến, quán xá là nơi họ tìm nguồn vui, những vại bia vàng óng là nơi các nhà chính khách lẫn thường dân tụ tập cuối tuần. Những saloon mọc lên san sát cạnh các hầm mỏ đào vàng, bạc, than đá...Đó là thế giới của đàn ông. Những người phụ nữ Mỹ nhận thấy ở saloon, không những đã làm hư hỏng các người chồng, người tình của họ bằng men rượu, mà còn bằng tệ nạn bài bạc, mãi dâm...làm sạch túi nguồn lợi tức của gia đình.
Khởi đầu từ những năm 1820 và kéo dài đến 1830, một làn sóng đạo đức và tôn giáo thổi qua nước Mỹ non trẻ, réo gọi sự chấn hưng đời sống có điều độ. Mỗi gia đình là nền tảng cho xã hội, và họ không mong trong mỗi gia đình đó có một ông bố say sưa rượu chè, dẫn đến người vợ bị bạo hành và đứa con phải bỏ học...Ở Ohio vào năm 1870, Bà Eliza Jane Thompson, vợ của một quan tòa, có đứa con trai chết vì nghiện rượu. Bà đã tụ tập một nhóm 200 phụ nữ tiên phương. Từ bên ngoài nhà thờ, sau đó họ đi đến các tiệm bar, các phòng bác sĩ cung cấp toa mua rượu, trưng bày biểu ngữ và quỳ xuống cầu nguyện cùng thuyết phục đừng bán rượu. Phong trào càng ngày càng được nhiều phụ nữ tham gia và dấy lên làn sóng chống đối bán rượu khắp nơi. Hẳn nhiên họ gặp phải khó khăn. Ở Cincinati, xe chữa cháy đã xịt nước vòi rồng vào những người phụ nữ can đảm biểu tình nọ, những bar rượu vờ chào đón những người phụ nữ này vào trong quán, rồi bất ngờ tưới beer lên áo quần họ và xô đẩy họ ra đường. Tuy vậy phong trào chống đối bán rượu của các bà nội tướng ngày càng gia tăng và ảnh hưởng đến các nhà lập pháp dân cử. Song hành với phong trào phụ nữ đòi quyền bầu cử là các Hội Chống Quán Bar, Liên đoàn Phụ nữ Công giáo...Họ cho rằng bia, rượu là tệ nạn dẫn đến tội phạm và suy thoái đạo đức cũng như suy yếu kinh tế nước Mỹ. Cấm bia rượu sẽ giảm tội phạm, gia đình hạnh phúc, nền tảng đạo đức Mỹ quốc gia tăng. Các nguồn chi thu cho gia đình và kinh tế địa phương sẽ dồn vào các mặt hàng thương mại lợi ích khác.
Đồng thời gian ấy, phong trào chống đối những người di cư này càng cao do đời sống kinh tế cạnh tranh khốc liệt. Và những người di dân gốc Châu Âu sành việc sản xuất bia rượu cũng là mục tiêu cho việc cấm đoán. Họ là Anheuser-Busch (Budweiser), Frederick Miller (Miller) và hàng chục các thương hiệu bia, rượu nổi tiếng từ Châu Âu khác. Thế là nước Mỹ đã dần có những cuộc tuần hành "vote dry" đòi bỏ phiếu cấm bia rượu. Từng tiểu bang dưới áp lực của các phong trào, các vị dân biểu đã xem xét dự luật. Năm 1838, tiểu bang Massachusetts đầu tiên áp dụng luật cấm, không bán cho bất kỳ ai mua dưới 15 gallons (gần 57 lít). Điều luật này cho rằng chỉ có người giàu có mới mua nỗi số lượng lớn bia rượu, đa số dân trung lưu không thể mua nỗi. Vào thời kỳ non trẻ của chính quyền lúc ấy thì lực lượng cảnh sát rất ít ỏi, và kẻ bán người mua đã dễ dàng phá luật. Bạn bè hùn nhau lại mua 15 gallon rồi chia nhau, nhà bán rượu làm thùng to 16 gallons, khi khách mua 1 gallons, sẽ được bán nguyên thùng 16 gallons, rồi người bán sẽ mua lại từ người mua 15 gallons. Thế nhưng điều làm đau đầu các nhà làm luật là nhiều mánh khóe dụ khách mua trong hợp lệ như: mời khách hàng mua vé xem các con heo có sọc (họ sơn sọc đen lên con heo) sau khi khách xem sẽ được uống 1 ly rum miễn phí. Các nhà hàng treo bảng "miễn phí ăn trưa" các thực khách sẽ được uống miễn phí sau khi trả tiền giá cao bù lại cho các miếng bánh khô thật mặn. Và nhiều cách khác tương tự...Sau 2 năm thì luật ở Massachusetts được thu hồi. Dù vậy vài tiểu bang khác đã hợp lòng dân ra luật cấm như Maine vào năm 1846, và dần dần áp dụng đến các bang khác cho đến khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ.
Năm 1917, sau khi nước Mỹ tham chiến, tổng thống Woodrow Wilson ban hành luật cấm tạm thời nhằm dành số lượng ngũ cốc cho sản xuất lương thực. Cùng năm đó Quốc hội đệ trình Tu chính án thứ 18, cấm sản xuất, vận chuyển, trao đổi buôn bán các thức uống có cồn. Điều đáng ngạc nhiên là Quốc hội dự trù phải mất đến 7 năm để dự luật có hiệu lực thực sự trên toàn quốc, thì Tu chính án này đã được sự ủng hộ từ đa số 2/3 các tiểu bang chỉ trong vòng 11 tháng. Luật cấm được phê chuẩn vào 29 tháng Giêng năm 1919 và đi vào hiệu lực 1 năm sau. Tuy vậy rải rác các tiểu bang đã có những áp dụng riêng lẻ, cho đến tháng 10 năm ấy, Đạo luật cấm toàn quốc mới khả thi và còn được gọi là Đạo luật Volstead dựa vào tên của Nghị viên Andrew Volstead bang Mississippi.