Hôm nay,  

Trận Đói Năm Ất Dậu

25/01/200500:00:00(Xem: 13237)
Cách đây 60 năm, một tai họa kinh hoàng đổ xuống các tỉnh Bắc phần và Bắc Trung phần của Việt Nam. Đó là trận đói năm Ất Dậu khiến hàng triệu người thiệt mạng. Chính phủ nào gây nạn đói này"
Diễn đàn Kinh tế của RFA sẽ mở lại hồ sơ thảm khốc này qua phần trao đổi sau đây cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện.
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, trên diễn đàn này, ông hay đưa ra những dự đoán về kinh tế trong tương lai. Kỳ này, chúng tôi xin đề nghị ông trở về quá khứ để mở lại một hồ sơ u ám của 60 năm về trước là trận đói năm Ất Dậu tại miền Bắc Việt Nam.
-- Thưa vâng, một hồ sơ u ám mà dư luận thế giới ít biết và nhiều thế hệ người Việt có khi lại đã quên. Và nói về chuyện dự báo thì một trường hợp tương tự vẫn có thể xảy ra trong thế kỷ 21 này, nếu ta theo dõi những gì đang xảy ra tại Trung Quốc. Đó là chưa nói đến dịch cúm gia cầm nay đã tái phát ngay tại Việt Nam với tốc độ rất đáng e ngại.
Hỏi: Ta chỉ còn hai tuần nữa là sẽ ăn Tết Ất Dậu. Chúng tôi không muốn vào đầu năm lại nói về chuyện u buồn của quá khứ nên mới yêu cầu đề tài trên vào tuần này. Xin ông trước hết cho biết kích thước của thảm kịch, cụ thể là số tử vong của trận đói.
-- Chỉ một sự kiện này cũng đủ cho thấy kích thước của thảm kịch vì các chính quyền hay giới chức liên hệ đến tình hình Việt Nam vào thời ấy không thống nhất được số tử vong trực tiếp của trận đói, chưa nói đến hậu quả gián tiếp về nhân mạng, thí dụ như dịch bệnh. Mà lúc đó thì các chính quyền liên hệ thực ra lại có rất nhiều, chúng ta có người Pháp, người Nhật, và mấy chính quyền của người Việt. Nói vắn tắt thì trận đói xảy ra từ tháng 10 năm 1944 đến tháng Sáu năm 1945, nặng nhất là ở các tỉnh miền Bắc như Hải Dương, Kiến An, Nam Định, Ninh Bình và Thái Bình, và tại hai tỉnh miền Bắc Trung phần là Nghệ An và Hà Tĩnh. Duy nhất có một chính quyền có nỗ lực cứu đói là Chính phủ Trần Trọng Kim thì chính phủ này bị lật đổ bởi cuộc chính biến 19 tháng Tám năm 1945 và không kịp kiểm tra hay báo cáo tình hình tổn thất về nhân mạng.
Hỏi: Nghĩa là một trận đói lớn lao như vậy xảy ra mà mình không biết rõ về số tử vong"
-- Đấy là điều ai oán vì những kẻ có trách nhiệm sau đó bị quét sạch và những người còn lại thì lao vào một thảm kịch khác là chiến tranh. Về số tử vong thì tháng Năm, năm 1945, tức là bảy tháng sau khi trận đói bùng nổ tại miền Bắc, toà Khâm Sai tại Hà Nội ra lệnh các tỉnh miền Bắc phúc trình về tổn thất. Có 20 tỉnh báo cáo số người chết vì đói ngoài Bắc là hơn 380 ngàn, chết vì bệnh – mà không rõ bệnh gì – là hơn 20 ngàn, vị chi là 400 ngàn cho riêng miền Bắc. Qua tháng 10 năm đó, một giới chức quân sự Pháp tại Đông Dương là Tướng Mordant báo cáo là khoảng nửa triệu người chết. Toàn quyền Pháp Jean Decoux thì viết trong hồi ký của ông về thời cầm quyền tại Đông Dương – À la barre de l’Indochine – là có một triệu người miền Bắc chết đói. Phần mình, người Việt ước đoán là từ một đến hai triệu. Nhiều sử gia về sau nêu ra con số một triệu trong khi những người sinh sống tại miền Bắc khi đó thì thiên về con số hai triệu, là điều ông Hồ Chí Minh có nói đến trong bài tuyên ngôn Độc lập của Việt Minh ngày mùng hai tháng Chín năm 1945. Để thấy rõ tầm mức thiệt hại thì mình cần nhớ là khi đó dân số miền Bắc và miền Bắc Trung phần chỉ vỏn vẹn có 10 triệu người. Toàn quốc thì có thể là hơn 20 triệu. Một tai họa khiến cho từ 5 đến 10% dân số toàn quốc bị chết, mà lại chết vì đói, là điều đáng buồn.
Hỏi: Bây giờ, ta hãy nói về những nguyên nhân. Vì sao lại có một tai họa như vậy"
-- Trả lời câu hỏi này, có lẽ ta phải thận trọng gỡ cho ra một mớ bòng bong chằng chịt rất nhiều yếu tố. Nguyên nhân xa là sự tệ hại của chế độ thực dân Pháp tại Việt Nam, với những biện pháp cải cách kinh tế nhằm phục vụ chế độ và nhu cầu chiến tranh, vì Pháp khi đó đang lâm chiến và bị xâm chiếm. Nguyên nhân gần là các hậu quả về chiến tranh tại Đông Đương, vì hai rồi ba cường quốc liên hệ là Pháp, Nhật rồi cả Hoa Kỳ đã can thiệp vào Việt Nam và gây nhiều tai họa ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế của người Việt. Đó là cái nhân, cái duyên là thiên tai gây mất mùa tại miền Bắc, là những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra khiến miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên bị đói.
Hỏi: Ta hãy lần giở từng phần của mớ bòng bong ấy, xin ông nói về các nguyên nhân xa...
-- Sau vụ tổng khủng hoảng kinh tế năm 1930, Pháp lui về chính sách bảo hộ mậu dịch và muốn độc quyền khai thác Đông Dương theo đường lối rõ rệt là thực dân. Tức là toàn thể dân chúng Đông Dương cùng ra sức nâng cao giá trị kinh tế của khu vực, nhưng hưởng lợi thì chỉ có người Pháp, một thiểu số người Việt và người Hoa gần với Pháp hay một số dân chúng thành thị. Pháp nói đến công lao khai hoá và xây dựng hạ tầng, nhưng dân Việt ra sức tài trợ việc đó bằng sức lao động và sưu thuế, còn lợi lộc thì chỉ nước Pháp và một thiểu số bản xứ được hưởng. Hậu quả là trước Thế chiến II, Việt Nam vẫn là một xứ lạc hậu và nghèo đói so với nhiều xứ Á châu khác, kể cả các thuộc địa của Anh.
Hỏi: Và xứ sở nghèo đói ấy lại bị lôi cuốn vào chiến tranh phải không"

-- Vâng, khi Thế chiến II bùng nổ, Pháp bị yếu thế. Tại Đông Á, Nhật bắt đầu bành trướng và nhìn vào Đông Dương như đầu cầu tiến qua Nam Á và khống chế Trung Quốc. Giữa năm 1940, Pháp bị Đức chiếm và Nhật gây sức ép với Pháp rồi năm sau tiến vào Đông Dương. Tức là sau khi bị khai thác và vẫn còn nghèo túng, Việt Nam tuột dần vào nền kinh tế thời chiến, với việc Pháp và Nhật cố tranh giành quyền kiểm soát kinh tế. Người ta nói đến lý do là Nhật bắt dân ta trồng đay thay trồng gạo để phục vụ chiến tranh. Thực ra, Pháp tiến hành việc ấy từ trước, cụ thể là thu hẹp diện tích canh tác các hoa màu phụ như ngô, khoai, sắn, để trồng bông, đay gai hay cây kỹ nghệ. Khi thiếu gạo, dân ta còn ăn độn khoai sắn, loại lương thực hạng nhì đó cũng hết nên mới chết. Cụ thể là sản lượng gạo tại miền Bắc tăng không dịp với dân số vì diện tích canh tác bị thu hẹp. Và miền Bắc cần gạo trong Nam, sau khi gửi phân đạm vào Nam....
Hỏi: Và chiến tranh phá vỡ thế hỗ tương ấy, ta đang tiến đến các nguyên nhân gần...
-- Vâng, là những nguyên nhân khiến dân ta vốn dĩ đã nghèo nay lại thiếu ăn trầm trọng. Nói chung thì miền Bắc có thể tạm đủ lương thực để cầm hơi, nhưng vì Việt Nam bị Nhật chiếm đóng và Đồng minh - chủ yếu là Hoa Kỳ - thường xuyên oanh tạc đường vận tải để tấn công quân Nhật nên gạo Nam hết ra Bắc, và than hay phân bón từ miền Bắc hết vào Nam. Hậu quả là sản lượng gạo trong Nam có sụt nhưng vẫn thừa và thóc còn bị Nhật đốt thay than để chạy xe lửa như nhiều người đã kể lại. Thực ra, lý do chính yếu là cả Pháp và Nhật đều ra sức vét gạo với chế độ cưỡng bách thu mua cho nhu cầu chiến tranh của họ trong khi bộ máy chính quyền của Pháp đã tan rã nên không đảm bảo được việc tiếp vận và phân phối. Nạn thiếu ăn biến thành nạn đói, manh nha từ đầu năm 1944.
Hỏi: Đã vậy, ta còn gặp các yếu tố thời cơ ông gọi là cái duyên của cái nhân đã có sẵn"
-- Thưa đúng vậy. Vì chiến tranh và sự tê liệt của guồng máy nhà nước, ta đã có nạn vật giá leo thang, nhất là giá lương thực. Thế rồi, miền Bắc lại bị hạn hán và côn trùng phá hoại khiến vụ Đông Xuân năm 1944 bị sụt khoảng 20%. Kế tiếp là lũ lụt lại xảy ra vào vụ Chiêm nên khủng hoảng bắt đầu bùng nổ. Thế rồi trong khi cả Pháp và Nhật cùng vét gạo thì một lực lượng khác là Việt Minh cũng tung ra thủ đoạn ấy. Điều này thì các văn kiện đảng về lịch sử đảng Cộng sản tất nhiên không nói đến. Trong cảnh đói kém triền miên khiến cho các làng xã hết còn bảo bọc được nhau như truyền thống, lực lượng nào có gạo thì hy vọng có dân. Về đại thể, chính quyền Pháp thời đó còn có chút cố gắng giới hạn để lo tiếp tế chứ khi Nhật đảo chính Pháp xong, vào tháng Ba năm 1945, họ không có biện pháp cấp cứu gì. Nỗ lực cứu đói của Chính phủ Trần Trọng Kim và cứu tế của một số người như bác sĩ Phan Quang Đán cùng các phong trào thanh niên thời ấy mới là điều đáng ghi nhớ.
Hỏi: Nếu tổng kết lại, ông cho rằng trận đói năm Ất Dậu bùng nổ vì là hậu quả của nhiều yếu tố trùng hợp, xảy ra một cách bất hạnh cho người Việt thời ấy"
-- Quả như thế. Thiên tai như hạn hán, lũ lụt hay côn trùng phá hoại mùa màng lẫn cả nạn giặc giã thì lịch sử Việt Nam thấy đã nhiều, nhưng chưa bao giờ khiến cả vạn hay cả triệu người chết đói. Nguyên do sâu xa là chế độ thực dân làm một xứ nông nghiệp lại thiếu lương thực. Tai họa chiến tranh trong một lãnh thổ mà chính quyền bị tê liệt là nguyên nhân gần. Kế tiếp mới là những tính toán chính trị bất nhân của các phe tham chiến. Ngần ấy yếu tố mới dẫn tới thảm kịch mà ngày nay có hỏi thế giới thì hầu hết đều không biết.
Hỏi: Và hậu quả sau đó ra sao, ông có thể rút kết luận gì"
-- Hậu quả gần là sự cáo chung của chế độ thực dân tại Việt Nam và cơ hội cho cuộc chính biến của Việt Minh ngày 19 tháng Tám năm 1945. Lúc đó, Nhật bại trận phải đầu hàng và rút quân, để lại một khoảng trống chính trị cho những hỗn loạn kế tiếp khi Thế chiến II kết thúc lại mở màn cho Chiến tranh lạnh, rồi Việt Nam lại bị lôi vào một cuộc chiến khác. Hậu quả xa là vì lương thực và nông nghiệp là chuyện sinh tử, người cộng sản mới đi tới giải pháp tai hại là cải cách ruộng đất khiến cả vạn người lại bị mất mạng nữa, rồi còn chủ trương hợp tác hoá nông nghiệp khiến cả triệu người bị đói... Mãi đến gần đây - từ 10 năm trở lại - dân ta mới hết bị cái đói ám ảnh...
Hỏi: Câu hỏi cuối, vào đầu chương trình ông có nói là một biến cố tương tự vẫn có thể xảy ra tại Hoa Lục. Vì sao lại như vậy"
-- Trung Quốc có một tỷ ba trăm triệu dân, trong số này, gần 900 triệu là nông dân nghèo và bất mãn. Một vụ khủng hoảng kinh tế vẫn có thể xảy ra và vì hệ thống chính trị lạc hậu với ách độc tài, khủng hoảng bùng nổ tất nhiên sẽ lan qua chính trị và đánh xập bộ máy nhà nước. Trong trường hợp ấy, nhiều người có thể chết đói mà thế giới vẫn không biết để can thiệp hay cấp cứu. Ngay tại Bắc Kinh, tháng Sáu năm 1989, quân đội đã tàn sát cả ngàn người tại quảng trường Thiên an môn mà thế giới chưa biết đích xác số nạn nhân. Vì vậy, nhiều tỉnh, huyện hay xã ấp sẽ có người chết đói mà mình không biết. Cũng như đã không biết là khoảng 65 triệu cho một dân số gần 500 triệu đã chết vì cuộc cách mạng của Mao Trạch Đông.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.