AUSTIN, Texas (VB) -- Nhà văn Mặc Đỗ -- tên đời là Đỗ Quang Bình -- đã từ trần ngày chủ nhật 20 tháng 9 năm 2015 tại Austin, tiểu bang Texas - Hoa Kỳ.
Như thế là gần trọn 100 tuổi, vì chính thức ông sinh năm 1917.
Măc Đỗ là nhà văn, nhà báo, dịch giả, ông là một trong những tên tuổi của văn học Miền Nam trước 1975. Sau 1975, sang Mỹ tỵ nạn ở tuổi 58. Thời gian cuối đời, Mặc Đỗ sống lặng lẽ với việc đọc Kinh Phật.
Nhà văn Ngô Thế Vinh đã viết về tiểu sử Mặc Đỗ:
“Tên Đỗ Quang Bình, sinh năm 1917 tại Hà Nội trong một gia đình Nho học nhưng hấp thụ một nền văn hoá Tây phương. Học Luật nhưng không hành nghề và chọn viết văn. Tên Mặc Đỗ được thân phụ đặt cho, có nghĩa là người họ Đỗ trầm lặng. Khởi đầu viết khá sớm các truyện ngắn, kịch và dịch sách đăng báo. Sau Hiệp định Geneve 1954 di cư vào Nam, cùng với Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan thành lập nhóm Quan Điểm, xuất bản sách của các thành viên trong nhóm. Về sinh hoạt báo chí, Mặc Đỗ đã cùng với các nhà văn Vũ Khắc Khoan, Tam Lang Vũ Đình Chí, nhà thơ Đinh Hùng, Như Phong Lê Văn Tiến, Mặc Thu Lưu Đức Sinh sáng lập tờ nhật báo Tự Do đầu tiên ở Miền Nam. Sau 1975 Mặc Đỗ tỵ nạn sang Mỹ.
Tác phẩm:
Bốn Mươi (1956), Siu Cô Nương (1958), Tân Truyện I (1967), Tân Truyện II (1973), Trưa Trên Đảo San Hô (2011), Truyện Ngắn (2014), chỉ trừ Tân Truyện II (1973) do Nxb Văn, sách Mặc Đỗ đều xuất bản với tên Nxb Quan Điểm.
Dịch thuật:
Lão Ngư Ông và Biển Cả / Ernest Hemingway (Quan Điểm 1956); Con Người Hào Hoa / F.Scott Fitzgerald (Quan Điểm 1956); Một Giấc Mơ / Vicki Baum (Cảo Thơm 1966); Người Vợ Cô Đơn / Francois Mauriac (Cảo Thơm 1966); Thời Nhỏ Trong Gia Đình Luvers / Boris Pasternak (Văn 1967); Tâm Cảnh / André Maurois (Văn 1967); Anh MÔN / Alain-Fournier (Cảo Thơm 1968); Vùng Đất Hoang Vu / Leo Tolstoi (Đất Sống 1973); Giờ Thứ 25 / Virgil Georghiu (Đất Sống 1973).
Trong Mộng Một Đời, rất sớm từ thuở niên thiếu, Đỗ Quang Bình -- chưa có bút hiệu Mặc Đỗ, đã nuôi mộng trở thành nhà văn, "Để luyện văn phong, người trai chọn phương pháp đúng nhất là dịch văn ngoại ra Việt văn. Kỹ thuật viết của những tác giả truyện đã dịch đã giúp khá nhiều cho việc hoàn thiện những cấu trúc cho truyện dài dự định sẽ viết."...” (ngưng trích)
Theo Ngô Thế Vinh, các tác phẩm dịch thuật của Mặc Đỗ từ hai ngôn ngữ Pháp và Anh sang tiếng Việt rất chuẩn mực và tài hoa, đã như một phần sự nghiệp thứ hai của ông bên cạnh sự nghiệp sáng tác. Các sách dịch của ông được liên tục tái bản những năm về sau này.
Nhà văn Mặc Đỗ có những ưu tư về sáng tác, đặc biệt về điều ông gọi là tác phẩm lớn.
Trong bài viết "Những người viết trẻ", Văn số 197 (Số đặc biệt sáu nhà văn trẻ), trang 2-9, ngày 1.3.1972, trên Diễn đàn Sách Xưa, bản điện tử do Bản Cốc thực hiện, và đ8ăng trên Da Màu, ghi lại suy nghĩ của Mặc Đỗ, trích:
“...Tương lai văn chương nước ta cần có đông những người viết, nhưng còn cần hơn nữa là cái chất phì nhiêu mà số đông những người viết sẽ tạo nên được qua những cố gắng hì hục ở khắp nơi. Lâu nay có một điều mà lắm nhà bình luận văn học hay đả động tới là hi vọng tìm thấy nhiều TÁC PHẨM LỚN. Phải viết hoa cả ba chữ to lớn đó lên để ai nấy ước lượng được cái sức voi đặt trong hoài bão đó. Người viết lại nghĩ khác. Không ai có thể tự hứa với mình sẽ hoàn thành một tác phẩm mà thiên hạ phải công nhận rằng lớn. Hết thảy những người viết đều kiêu hãnh, chẳng tự hứa không ai quên thầm nhủ phải cố gắng. Tài kỹ có bao nhiêu dại gì mà không vận dụng hết. Nguyễn Du, ông lớn số một của văn chương Việt Nam đã chẳng hồ nghi không biết ba trăm năm sau thì sao đó ư. Cái lớn của một tác phẩm văn học nó giống như đứa trẻ mà hai bậc cha mẹ cấu tạo trong chỗ kín đáo...
...Cứ chân thành trong rung cảm, o bế tưởng tượng thật tận tình, mài dũa văn tự ngôn ngữ cho đến nơi đến chốn, đế trơ cái lõi của chữ nghĩa ra, tác phẩm có lớn hay không là tự nó về sau, biết làm sao được. Tác phẩm của mình tự cho là toàn bích, bạn hữu xúm vào nịnh xỏ bảo rằng hay nhất, nhưng tung ra đời thiên hạ chỉ thấy rằng được được vậy thôi thì đừng nên nổi giận, cứ từ từ chờ thời gian, biết đâu đấy. Nhưng nhất định là đừng lo làm lớn, tin rằng tác phẩm đã lớn thật.
Trở lại ý kiến đã nói ở trên, người viết không rình mò chờ đợi tác phẩm lớn hiện ra ở chân trời văn chương. Người viết tin rằng sẽ có tác phẩm lớn được suy tôn sau này qua đông đảo những cố gắng của số đông người viết trẻ đang sản xuất văn học. Cuộc đời ở chung quanh chúng ta đang thê thảm như con trâu bị lăng trì đứng đợi ở bên cọc. Những người viết, phần lớn là những người trẻ, đang lóc từng mảnh thịt trên lưng trâu bày lên sách báo. Những tác phẩm đúng là những tảng thịt tươi đó...”(ngưng trích)
Vĩnh biệt nhà văn Mặc Đỗ. Nhà văn ra đi, nhưng ngôn ngữ vẫn ở lại với chúng ta.
Như thế là gần trọn 100 tuổi, vì chính thức ông sinh năm 1917.
Măc Đỗ là nhà văn, nhà báo, dịch giả, ông là một trong những tên tuổi của văn học Miền Nam trước 1975. Sau 1975, sang Mỹ tỵ nạn ở tuổi 58. Thời gian cuối đời, Mặc Đỗ sống lặng lẽ với việc đọc Kinh Phật.
Nhà văn Ngô Thế Vinh đã viết về tiểu sử Mặc Đỗ:
“Tên Đỗ Quang Bình, sinh năm 1917 tại Hà Nội trong một gia đình Nho học nhưng hấp thụ một nền văn hoá Tây phương. Học Luật nhưng không hành nghề và chọn viết văn. Tên Mặc Đỗ được thân phụ đặt cho, có nghĩa là người họ Đỗ trầm lặng. Khởi đầu viết khá sớm các truyện ngắn, kịch và dịch sách đăng báo. Sau Hiệp định Geneve 1954 di cư vào Nam, cùng với Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan thành lập nhóm Quan Điểm, xuất bản sách của các thành viên trong nhóm. Về sinh hoạt báo chí, Mặc Đỗ đã cùng với các nhà văn Vũ Khắc Khoan, Tam Lang Vũ Đình Chí, nhà thơ Đinh Hùng, Như Phong Lê Văn Tiến, Mặc Thu Lưu Đức Sinh sáng lập tờ nhật báo Tự Do đầu tiên ở Miền Nam. Sau 1975 Mặc Đỗ tỵ nạn sang Mỹ.
Tác phẩm:
Bốn Mươi (1956), Siu Cô Nương (1958), Tân Truyện I (1967), Tân Truyện II (1973), Trưa Trên Đảo San Hô (2011), Truyện Ngắn (2014), chỉ trừ Tân Truyện II (1973) do Nxb Văn, sách Mặc Đỗ đều xuất bản với tên Nxb Quan Điểm.
Dịch thuật:
Lão Ngư Ông và Biển Cả / Ernest Hemingway (Quan Điểm 1956); Con Người Hào Hoa / F.Scott Fitzgerald (Quan Điểm 1956); Một Giấc Mơ / Vicki Baum (Cảo Thơm 1966); Người Vợ Cô Đơn / Francois Mauriac (Cảo Thơm 1966); Thời Nhỏ Trong Gia Đình Luvers / Boris Pasternak (Văn 1967); Tâm Cảnh / André Maurois (Văn 1967); Anh MÔN / Alain-Fournier (Cảo Thơm 1968); Vùng Đất Hoang Vu / Leo Tolstoi (Đất Sống 1973); Giờ Thứ 25 / Virgil Georghiu (Đất Sống 1973).
Trong Mộng Một Đời, rất sớm từ thuở niên thiếu, Đỗ Quang Bình -- chưa có bút hiệu Mặc Đỗ, đã nuôi mộng trở thành nhà văn, "Để luyện văn phong, người trai chọn phương pháp đúng nhất là dịch văn ngoại ra Việt văn. Kỹ thuật viết của những tác giả truyện đã dịch đã giúp khá nhiều cho việc hoàn thiện những cấu trúc cho truyện dài dự định sẽ viết."...” (ngưng trích)
Theo Ngô Thế Vinh, các tác phẩm dịch thuật của Mặc Đỗ từ hai ngôn ngữ Pháp và Anh sang tiếng Việt rất chuẩn mực và tài hoa, đã như một phần sự nghiệp thứ hai của ông bên cạnh sự nghiệp sáng tác. Các sách dịch của ông được liên tục tái bản những năm về sau này.
Nhà văn Mặc Đỗ có những ưu tư về sáng tác, đặc biệt về điều ông gọi là tác phẩm lớn.
Trong bài viết "Những người viết trẻ", Văn số 197 (Số đặc biệt sáu nhà văn trẻ), trang 2-9, ngày 1.3.1972, trên Diễn đàn Sách Xưa, bản điện tử do Bản Cốc thực hiện, và đ8ăng trên Da Màu, ghi lại suy nghĩ của Mặc Đỗ, trích:
“...Tương lai văn chương nước ta cần có đông những người viết, nhưng còn cần hơn nữa là cái chất phì nhiêu mà số đông những người viết sẽ tạo nên được qua những cố gắng hì hục ở khắp nơi. Lâu nay có một điều mà lắm nhà bình luận văn học hay đả động tới là hi vọng tìm thấy nhiều TÁC PHẨM LỚN. Phải viết hoa cả ba chữ to lớn đó lên để ai nấy ước lượng được cái sức voi đặt trong hoài bão đó. Người viết lại nghĩ khác. Không ai có thể tự hứa với mình sẽ hoàn thành một tác phẩm mà thiên hạ phải công nhận rằng lớn. Hết thảy những người viết đều kiêu hãnh, chẳng tự hứa không ai quên thầm nhủ phải cố gắng. Tài kỹ có bao nhiêu dại gì mà không vận dụng hết. Nguyễn Du, ông lớn số một của văn chương Việt Nam đã chẳng hồ nghi không biết ba trăm năm sau thì sao đó ư. Cái lớn của một tác phẩm văn học nó giống như đứa trẻ mà hai bậc cha mẹ cấu tạo trong chỗ kín đáo...
...Cứ chân thành trong rung cảm, o bế tưởng tượng thật tận tình, mài dũa văn tự ngôn ngữ cho đến nơi đến chốn, đế trơ cái lõi của chữ nghĩa ra, tác phẩm có lớn hay không là tự nó về sau, biết làm sao được. Tác phẩm của mình tự cho là toàn bích, bạn hữu xúm vào nịnh xỏ bảo rằng hay nhất, nhưng tung ra đời thiên hạ chỉ thấy rằng được được vậy thôi thì đừng nên nổi giận, cứ từ từ chờ thời gian, biết đâu đấy. Nhưng nhất định là đừng lo làm lớn, tin rằng tác phẩm đã lớn thật.
Trở lại ý kiến đã nói ở trên, người viết không rình mò chờ đợi tác phẩm lớn hiện ra ở chân trời văn chương. Người viết tin rằng sẽ có tác phẩm lớn được suy tôn sau này qua đông đảo những cố gắng của số đông người viết trẻ đang sản xuất văn học. Cuộc đời ở chung quanh chúng ta đang thê thảm như con trâu bị lăng trì đứng đợi ở bên cọc. Những người viết, phần lớn là những người trẻ, đang lóc từng mảnh thịt trên lưng trâu bày lên sách báo. Những tác phẩm đúng là những tảng thịt tươi đó...”(ngưng trích)
Vĩnh biệt nhà văn Mặc Đỗ. Nhà văn ra đi, nhưng ngôn ngữ vẫn ở lại với chúng ta.
Gửi ý kiến của bạn