Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Tìm hiểu về viện Khổng Tử - Kỳ cuối

07/02/201502:29:00(Xem: 4051)

CHỐNG TÀU DIỆT VIỆT CỘNG

Bản tin số 55— Ngày 06 tháng 02 năm 2015 

 

Tìm hiểu về viện Khổng Tử - Kỳ cuối

Nguồn: The Nation (29/10/2013)

Tác giả: Mashall Sahlins

Người dịch: Trần Văn Minh

06/02/2015

Viện Khổng Tử kiểm duyệt các cuộc thảo luận chính trị và hạn chế sự tự do trao đổi tư tưởng. Tại sao, sau đó, các trường đại học Mỹ bảo trợ cho họ?

blank


​Sự thành lập Học viện Khổng Tử tại Đại học Chicago được ghi là, như được dự đoán, "định chế tự do" trong cả khái niệm ban đầu lẫn nội dung học thuật. Henry Paulson gần đây đã đóng góp vài triệu đô la cho một viện mang tên mình, nằm trong tòa nhà riêng biệt trên mảnh đất quan trọng gần trường đại học chính. Hiện nay đang được tu sửa và kế bên khuôn viên trường là các dãy nhà của một nhà thờ lớn được dự kiến là chỗ ở mới của Phân khoa Kinh tế của đại học Chicago nổi tiếng và viện Friedman Becker, điều đó đặt ra cho các kiến trúc sư những thách thức lớn trong việc thay đổi cách thức sắp xếp theo chức năng các tòa nhà trong khi vẫn bảo tồn đặc tính tôn giáo của nó. Viện Khổng Tử (VKT), ngoài việc cung cấp giáo viên dạy ngôn ngữ từ Trung Quốc, còn tài trợ công trình nghiên cứu cần thiết về các lãnh vực phát triển kinh tế Trung Quốc – thực ra, nhiều về kinh tế hơn so với việc giảng dạy ngôn ngữ. Như với các viện khác tại Chicago, nguồn gốc của VKT ghi dấu ấn của một người, nhà khoa học chính trị Dali Yang, vào thời điểm khi ông sửa soạn bản dự thảo cho VKT, là giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á. Trong khoảng một năm, Yang đã có thể đưa dự thảo vào các cuộc đàm phán với các viên chức Trung Quốc, các quản trị viên và đồng nghiệp giảng viên tại đại học Chicago.

Yang đã không thể dựng nên VKT một mình; tổ chức của ông đã thành công bởi vì có sự tham gia của các định chế đại học lớn, đưa tới cho tổ chức của ông sức thuyết phục và sự hỗ trợ hiệu quả. Một mặt, có sự thỏa thuận ngầm sẵn sàng của ban điều hành trường đại học, điều cũng giống như nhiều đại học khác dễ dàng bị lôi cuốn vào sự thèm thuồng đáng xấu hổ đối với tiền của, sự quyến rũ và vinh quang. Đại học Chicago rất tự hào về truyền thống của họ. (Theo lời kể của Thorstein Veblen trong cuốn sách “Học vấn trình độ cao tại Mỹ” [1918], một sự quan tâm mang tính cạnh tranh nào đó về danh tiếng học viện và uy tín trước công chúng của giới học thức uyên bác đã xuất hiện vào đầu thế kỷ XX.) Mặt khác , Yang biết làm thế nào để đáp ứng sự chú ý mới của Hanban về vấn đề "nghiên cứu cốt lõi", và chủ yếu là sự ham muốn lộ liễu của Trung Quốc đối với phân khoa kinh tế của đại học Chicago. Theo Ted Foss, Trung tâm Nghiên cứu Đông Á thường xuyên bị tràn ngập bởi các cuộc gọi từ Lãnh sự quán Trung Quốc yêu cầu để sắp xếp một buổi chụp hình với Gary Becker [giáo sư kinh tế tại đại học Chicago] cho một phái đoàn quan chức cao cấp.

Tại Chicago, Hanban đã đạt được những điều họ muốn: không những số lượng vượt trội các dự án nghiên cứu về sự phát triển kinh tế Trung Quốc, mà còn có được một hội nghị chuyên đề hàng năm giữa đại học Chicago và Renmin về Kinh tế gia đình và lao động, hiện đang trong năm thứ tư. Đại học Renmin, với tư cách đồng hành với các VKT trong số hơn chục trường ngoài đại học Chicago, nhiều hơn bất kỳ đại học nào khác của Trung Quốc, có tiếng tăm như Janus (vị thần 2 mặt, có thể nhìn thấy tương lai và quá khứ). Tại Chicago, Renmin được ca tụng như trường đại học hàng đầu của Trung Quốc trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn, trong khi ở Trung Quốc, đại học này được mọi người biết đến như trường đại học của đảng, vì nó được thành lập bởi Đảng Cộng sản và là nơi đào tạo bắt buộc chính yếu cho cán bộ nhà nước. VKT tại đại học Chicago phô bày bộ mặt tức cười của Cộng sản Trung Quốc trong việc sử dụng tên tuổi của Khổng Tử để chuyển tải tư tưởng chủ nghĩa tư bản ưu việt của Gary Becker như sự lựa chọn hợp lý.

Một sự mâu thuẫn còn lớn hơn nữa là viện Khổng Tử chấp nhận truyền thống thả lỏng được yêu quý của đại học, trong cả hai vấn đề tự do học thuật và triết lý kinh tế, trong một dự án toàn cầu được thiết kế để mở rộng ảnh hưởng chính trị của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Sự kết hợp đầy mâu thuẫn giữa tự do kinh doanh và sự kiểm soát của nhà nước đã xảy ra vào tháng 4 năm 2008, khi Dali Yang và Ted Foss tham khảo ý kiến một đại diện giáo dục của Trung Quốc tại Chicago về các đòi hỏi tổng quát cho một Viện Khổng Tử. Từ lời thú nhận của hai vị này, bao gồm một bản phác thảo lịch sử của VKT Chicago do Yang viết, quá trình tham vấn tiếp theo bao gồm sự cảnh giác từ sớm cho các khoa trưởng của khoa nhân văn và khoa học xã hội này. Sau đó, Yang đã trình bày dự thảo về VKT đại học Chicago với các học giả Trung Quốc thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á, những người sau một cuộc thảo luận đã đồng nhất chấp thuận việc thành lập. Đây là nhóm duy nhất được bỏ phiếu (các học giả Hàn Quốc và Nhật Bản đã bị loại ra khỏi tiến trình), và họ là số giảng viên đại học duy nhất hay biết về VKT trước khi viện được khánh thành.

Sau đó, vào năm 2010, sau khi tin tức về thỏa thuận trở nên phổ biến, 174 giảng viên đại học Chicago đã ký một bản kiến nghị phản đối sự chấp thuận thiếu sáng suốt của đại học về viện Khổng Tử mà không có sự đồng ý của ban quản lý, là đại diện hợp pháp cho họ. Theo tường trình lịch sử của Dali Yang, hội đồng điều hành của Trung tâm Nghiên cứu Đông Á đã thảo luận về VKT trong một năm trước khi thành lập, nhưng ít nhất một thành viên của hội đồng nhỏ này - Bruce Cumings, sử gia nổi tiếng về Hàn Quốc - không hay biết về sự tồn tại của VKT cho đến tròn sáu tháng sau khi thỏa thuận đã được ký kết và đóng dấu với Bắc Kinh. (Hội đồng điều hành của trung tâm họp rất bất thường, theo Foss, thậm chí còn ít hơn một lần một năm.) Mặt khác, buổi tham vấn duy nhất khác là một cuộc họp vào cuối ngày với một "nhóm làm việc nhỏ của khoa, các khoa trưởng, và quản trị viên”. Vào tháng 9 năm 2009, bản đề nghị thành lập VKT được trình cho Hanban. Ngày 29 Tháng 9 năm 2009, thỏa thuận thành lập Học viện Khổng Tử được ký kết bởi một phó hiệu trưởng đại học và giám đốc điều hành của Hanban. Ngày 1 tháng 6 năm 2010, viện được chính thức khai trương, với sự tham dự của hiệu trưởng đại học Chicago và quan chức Hanban trong buổi lễ.

Trong số những nhượng bộ mà Hanban dành cho Chicago là loại bỏ điều khoản bí mật khỏi thỏa thuận VKT. Rõ ràng là không cần điều khoản này, bởi vì viện Khổng Tử vẫn còn là một bí mật trong các khía cạnh quan trọng đối với các thành viên của hội đồng điều hành khoa, là ban giám sát hoạt động của VKT. Đứng đầu là khoa trưởng khoa nhân văn, Martha Roth, hội đồng bao gồm hai giáo sư khác của đại học Chicago và hai thành viên do Đại học Renmin bổ nhiệm. Roth cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng bà không biết các điều khoản của bộ luật căn bản của viện Khổng Tử: "Tôi không nhớ có nhìn thấy nó". Bà cũng không nhớ những điều khoản của hợp đồng mà trường đại học đã ký kết với Hanban. Bà nghĩ, một cách sai lầm rằng Hanban ở "dưới sự chỉ dẫn và bảo trợ của Bộ Giáo dục [Trung Quốc]" – một ấn tượng Hanban chính thức chuyển tải trong các văn bản tiếng Anh bằng sự “liên kết" của họ với bộ đó, thay vì với hội đồng các quan chức chính phủ mà họ báo cáo trong thực tế. Khi được hỏi về việc đệ trình dự án nghiên cứu lên Bắc Kinh để được chấp thuận và tài trợ, Roth tìm thấy những thủ tục không thể phản đối được, giống như công việc đệ trình dự án lên Bộ Giáo dục Hoa Kỳ. Bà cũng chẳng quan tâm đến các vấn đề xảy đến với viện Khổng Tử tại các trường đại học khác, Bà hài lòng khi đại học Chicago vẫn theo đuổi nguyên tắc riêng của họ về tự do học thuật. Khi được yêu cầu bình luận về các quy định chi phối các viện Khổng Tử trong bộ luật của Hanban và trong hợp đồng, Roth trả lời rằng các câu hỏi như vậy “tốt hơn nên đặt với văn phòng pháp lý" của đại học.

Tuy nhiên, Roth chắc chắn rằng Bắc Kinh không cung cấp giáo viên tiếng Hoa cho đại học Chicago và trả lương và vé máy bay cho họ, như quy định trong các văn bản chính thức. Bà nói đáng lẽ ra Hanban đã làm như vậy hai năm trước đây, nhưng "điều đó chưa bao giờ xảy ra". "Thật là đáng tiếc", Bà nói, "bởi vì chúng tôi cần thêm lớp dạy tiếng Hoa". Có lẽ sai lầm hiển nhiên này xảy ra bởi vì các giáo viên do Hanban cung cấp dạy các cua trong thời biếu thường xuyên của chương trình đại học bốn năm, chứ không phải trong chương trình giảng dạy của chính viện Khổng Tử. Hanban đã từng cung cấp hai, hoặc nhiều hơn, giảng viên ngôn ngữ khách cho Đại học Chicago từ năm 2006, thậm chí trước khi có thỏa thuận chính thức; kể từ khi thỏa thuận được ký kết, sự cung ứng vẫn tiếp tục theo các điều khoản của thỏa thuận. Dự thảo của Chicago cho viện Khổng Tử, như đã nói trước đây, có một thành phần giảng viên đáng kể. Tuy nhiên, quan niệm sai lầm vẫn tiếp tục kéo dài về cách thức các giáo viên được lựa chọn.

Đề cập đến một nhượng bộ khác [của VKT] với đại học Chicago, cả Dali Yang và Ted Foss nói trường đại học kiểm soát phần lớn việc tuyển dụng giáo viên dạy ngôn ngữ từ Trung Quốc. Theo lời của Yang, "Trường đại học đảm trách phần lớn tiến trình tuyển dụng các giáo viên Trung Quốc, không chỉ là quyền từ chối". Foss nói, "Chúng tôi có quyền quyết định ai là người được gửi tới". Tuy nhiên, giám đốc của chương trình tiếng Hoa tại đại học, người thuê mướn các giáo viên Hanban, có một cái nhìn khác về tiến trình. Bà nói rằng, dựa trên kiến thức của mình, tất cả giáo viên tiếng Hoa có thể đệ đơn xin việc, nhưng họ phải có trình độ ngôn ngữ cao cấp về tiếng Hoa và đã từng dạy sinh viên nước ngoài tại đại học. "Sau đó, họ cần phải trải qua cuộc khảo sát như về tiếng Anh và tâm lý. Nếu họ được Hanban chọn, họ cần phải tham dự một khóa huấn luyện. Họ nói rằng họ học được những điều như nghệ thuật dân gian truyền thống". Khi được hỏi Chicago đóng vai trò gì trong việc lựa chọn giáo viên, bà giám đốc, khi đó ở Bắc Kinh, trả lời: "Chúng tôi không chọn. Họ đề nghị, và chúng tôi chấp nhận”. Sáu tuần sau, chúng tôi gặp lại ở Chicago, bà cho biết trường có thể từ chối đề nghị của Hanban bằng cách rà soát các ứng viên VKT, và sau đó Hanban sẽ đề nghị giáo viên khác, nhưng điều này đã không xảy ra. Trong mọi trường hợp, vì Hanban hoạt động theo luật Trung Quốc - thí dụ như sự xác định Pháp Luân Công là một tổ chức tội phạm - Chicago sẽ dễ bị tổn thương, tuy rằng vô tình, do thực hành phân biệt đối xử trong việc mướn người, điều đã đưa Đại học McMaster ra trước một tòa án nhân quyền. Trường đại học còn dễ bị tổn thương hơn vì đại học trả tiền cho các giáo viên, được Hanban chọn, một phần lương bổ sung ngoài lương Trung Quốc của họ.

Sự vô ý này dường như còn nghiêm trọng hơn vì sự sơ suất về phía đại học, thậm chí, nằm ở các vị trí cao trong giới điều hành hơn những người có trách nhiệm quản lý trực tiếp. Ngày 4 tháng 6 năm 2010, ba ngày sau khi viện Khổng Tử của Đại học Chicago được khai trương, hiệu trưởng và giám đốc điều hành có một cuộc họp với các đại diện của hội giảng viên tự lập gọi là CORES, VKT đã được đem ra thảo luận. CORES đã khởi động một kiến nghị được 174 giảng viên ký tên phản đối điều họ gọi là "doanh nghiệp hóa" trường đại học, trong đó viện Khổng Tử và viện Friedman Milton là những thí dụ điển hình. Biên bản cuộc họp này đã được phổ biến đến mọi người tham gia, không có sự chỉnh sửa nào được yêu cầu cho bất kỳ nội dung nào. Biên bản chỉ ra rằng hai học giả về Đông Á nổi tiếng, Bruce Cumings và Norma Field, phản đối tính cách chính trị của viện Khổng Tử, vai trò của nó trong việc xác định những gì được dạy về Trung Quốc tại trường đại học, và cách thức thế nào để "hai giảng viên này và các giảng viên khác, những người phụ trách chủ đề Đông Á, bị loại trừ hoàn toàn khỏi các cuộc thảo luận và quá trình ra quyết định". Họ không phải là duy nhất: biên bản còn ghi lại rằng hiệu trưởng đại học, Robert Zimmer và giám đốc điều hành Thomas Rosenbaum "thừa nhận họ thiếu thông tin về vấn đề này và bày tỏ sự hoang mang và hối hận về sự việc đã xảy ra như thế".

Như thế, điều gì ngăn chặn Zimmer chưa cắt đứt quan hệ của Chicago với viện Khổng Tử, cũng như các đại học Columbia và London School of Economics chưa làm giống như vậy? Các đại học nổi tiếng chấp nhận VKT cần phải đi đầu trong việc đảo ngược quá trình, bởi vì vấn đề này có liên quan lớn hơn so với lợi ích của riêng họ: bằng cách chứa chấp một viện Khổng Tử, họ đã bắt đầu tham gia vào các nỗ lực chính trị và tuyên truyền của một chính phủ nước ngoài trong một cách trái ngược với các giá trị của tự do sưu tầm và phúc lợi con người mà họ từng cam kết. Trong vị thế hơn hẳn các cơ sở học thuật địa phương, các trường đại học cũng vậy, từng mỗi phần tử, là các thực thể mang tính toàn cầu: lý tưởng phổ quát của tự do sưu tầm vì lợi ích của tất cả nhân loại mà họ thành lập trên đó làm cho VKT không thể so sánh nổi. Đại học Chicago đã từng có quá khứ lâu dài sống với phương châm của mình: Crescat scientia; vita excolatur. Hãy để kiến thức phát triển, sau đó đời sống của con người sẽ nảy nở.

http://chongtaudvietcong.com/2015/02/07/tim-hieu-ve-vien-khong-tu-ky-cuoi/

 


.
,

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.