Hôm nay,  

Sổ Tay Thường Dân Tưởng Năng Tiến: Ăn Mặc & Ăn Nói

05/10/201300:00:00(Xem: 6726)
Có lần, bên bàn nhậu, tôi nghe một cha nói (y như thiệt) rằng hồi năm 1941 Nhà Nước Thuộc Địa đã trao tặng giải thưởng và cấp bằng tưởng lục cho một người dân Việt vì đã chế ra cái đèn dầu Hoa Kỳ – hiện vẫn còn được lưu dụng, ở nhiều nơi.

Cùng thời điểm này, chính xác là vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, xẩy ra trận Trân Châu Cảng. Theo Wikipedia:

“Cuộc tấn công bao gồm hai đợt không kích với tổng cộng 353 máy bay xuất phát từ 6 tàu sân bay Nhật Bản. Trận tấn công đã đánh chìm 4 thiết giáp hạm Hoa Kỳ (2 chiếc trong số đó sau này được vớt lên và đưa trở lại hoạt động), và gây hư hỏng cho 4 chiếc khác. Quân Nhật còn đánh chìm hoặc phá hoại 3 tàu tuần dương, 3 tàu khu trục và 1 tàu thả mìn, phá hủy 188 máy bay....”

So như thế (nghĩ) đã buồn nhưng sự thật còn buồn hơn thế nữa. Cha đẻ cái đèn dầu Hoa Kỳ – thực ra – là một người Ba Lan, Ignacy Lukasiewicz. Ông làm ra nó vào năm 1853.

Một trăm năm mươi hai năm sau, báo Tiền Phong – số ra ngày 7 tháng 10 năm 2005 – còn (chua chát) thêm rằng: “Chúng ta chưa tự làm được cái đinh vít!”

Dân Việt, rõ ràng, không có “năng khiếu” cao về khoa học và kỹ thuật. Ít nhất thì cũng không “cao” bằng dân Nhật. Nói cách khác (và nói một cách hơi hoa mỹ) Việt Nam là một xứ sở trọng nông hoặc thuần nông, chỉ chuyên về việc sản xuất lúa gạo thôi.

Đã có một thời mà mọi thứ ở đất nước này đều có thể có thể qui ra gạo, và gạo còn được dùng như một loại hoá tệ cho sinh hoạt mua bán thường ngày, kể cả việc... mua dâm – theo như lời kể của một nhà văn:

“Ga Vinh một buổi tối trời mưa. Một túp nhà lá nằm nép bên vệ đường, phía sau là khoảng nước dở ao dở rãnh, muỗi và cỏ nhiều. Một ngọn đèn dầu run rẩy vì gió, cháy leo lét được treo trước cửa sổ. Một con chó già còm cõi bê bết bùn đất và lạnh, nằm in bóng đèn dầu dưới cửa sổ, tru ư ử trong họng mà không dám vào nhà vì sợ đòn. Gió hú rít xoáy quanh cửa tranh nhau luồn vào nhà. Có tiếng mái tranh cọ nhau xào xạc như van xin. Tiếng chẫu chuộc gọi cái làm nhịp cho mưa rơi…

Có tiếng chân rẽ nước đi tới, rồi một cái đầu đàn ông thò vào cửa sổ, nhễu nước lã chã xuống con chó.

“Bao nhiêu?”

Bên này:

“Năm chục.”

“Đắt thế, gái Sài Gòn còn chả tới nữa là…”

“Thế muốn bao nhiêu?”

“Hai chục…?”

“Thanh toán trước đi!”

“Gì mà vội thế, chả ‘tình’ tí nào cả.”

“Sao? Có tiền không?”

“Lấy gạo nhé?”

“Gạo gì? Mậu dịch hay gạo mới?”

“Mới chia tiêu chuẩn tháng ở cơ quan về, chưa xem.”

“Gạo mậu dịch rồi, tính bao nhiêu?”

“Hai chục.”

“Đắt quá, mà cũng không có cân nữa.”

“Mười tám đồng vậy, đong đại bằng ống sữa bò đi…”

“Ừ, thế cho tiện, cân mất công, gạo đi mua nặng ký… mà này, có trộn đá dăm vào không đấy?”

“Mang đèn ra mà soi.”

“Gạo này chỉ mười lăm đồng.”

”Đong vun tay thế kia thành hai cân của người ta chứ còn gì…”

Một thằng nhóc chừng chín tuổi thình lình hiện ra như chui từ dưới đất lên, đứng mút tay nhìn cảnh đong gạo. Người đàn ông còn đang loay hoay cột lại cái bao của mình thì nó giật túi gạo nơi tay người đàn bà, chạy vụt ra cửa.

“Nấu cơm nhé, đừng nấu cháo… Nhớ để phần cho chị đấy.”

(Thế Giang. “Chỗ Nước Đọng”. Thằng Người Có Đuôi. Costa Mesa: Người Việt, 1987. 99-104)

Câu chuyện trên, tất nhiên, đã cũ. Thời sổ gạo và tem phiếu đã qua. Ngày 27 tháng 9 năm nay, tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Thủ Tướng Việt Nam – ông Nguyễn Tấn Dũng – đã long trọng thông báo cho toàn thể nhân loại biết rằng:

“Từ một nước thiếu đói, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Chúng tôi không chỉ bảo đảm an ninh lương thực cho riêng mình mà còn góp phần tích cực bảo đảm an ninh lương thực thế giới.”

Hai năm trước, báo Công an nhân dân (số ra ngày 20 tháng 7 năm 2011) cũng đã khẳng định tương tự: “Cái đói bị đẩy lùi xa tít tắp.”

Nói như vậy chắc là xa dữ lắm. Theo như tường trình của phóng viên Uyên Nguyên, RFA, hôm 22 tháng 5 năm 2013, cái đói đã bị đẩy tuốt luốt lên tới... những huyện miền núi ở tỉnh Thanh Hoá:

“Nhìn bữa ăn của gia đình người Thái Trắng này, nó cũng giồng như nhiều bữa ăn khác của những gia đình Thái Trắng khác mà chúng tôi gặp ở Mường Lát, Quan Hóa, Ngọc Lặc, Lang Chánh… Một nồi cơm độn sắn lát, một bát cà rừng và một chén mắm chuột để chấm cà, chúng tôi chỉ biết ứa nước mắt nhìn đồng loại nuốt cơm!”

Hoặc còn xa hơn nữa, “tít tắp” mãi đến tỉnh Hà Giang, như tâm sự (nghe được vào ngày 25 tháng 9 năm 2012) của cô phó hiệu trưởng Trần Thị Phúc:

“Học sinh ở đây nghèo lắm, nếu không xuống tận địa bàn chắc khó có thể hình dung hoàn cảnh của từng cháu. Có những em quanh năm chỉ mặc duy nhất một bộ quần áo, chưa từng biết đến đôi tất và thường xuyên phải ăn mèn mén thay cơm.”

Cái đói và chuyện ăn độn, bây giờ, chỉ còn quanh quẩn (quanh năm suốt tháng) ở những vùng xa, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng thôi. Chứ còn ở miền xuôi, nói chung, ngay tại nông thôn người dân vẫn được ăn cơm, và ăn no.

Riêng tại Hà Nội hôm nay còn có những tách cà phê hay những tô phở trị giá (cỡ)... nửa triệu đồng! Câu thơ ngày xưa (Đảng còn kia bát phở hoá thành mơ) của Nguyễn Chí Thiện đã bị thời thế bỏ lại phía sau xa lơ, xa lắc. Uớc mơ của người dân Việt hôm nay, rõ ràng, đã vượt mức ăn/ mặc. Đã đến thời người dân đòi ăn/nói – như họ vừa dõng dạc Tuyên Bố Về Thực Thi Quyền Dân Sự và Chính Trị:

“Chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền tôn trọng quyền bày tỏ quan điểm của công dân, thẳng thắn tranh luận và đối thoại, từ bỏ cách đối xử không công bằng, không minh bạch và không đường hoàng như đã và đang áp dụng đối với những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và những tiếng nói đòi dân chủ khác với quan điểm của nhà cầm quyền.

Ý kiến khác nhau cần được tranh luận thẳng thắn để tìm chân lý; còn dựa vào quyền lực để cản trở việc công bố, không đối thoại mà chỉ đơn phương phê phán, quy kết, thậm chí dùng nhiều cách ngăn cấm và trấn áp thì không những vi hiến và trái với Công ước quốc tế mà còn không đúng với tư cách chính đáng của một nhà cầm quyền.
...........

Thực tế ở nước ta cho thấy rõ: thể chế này đã tạo nên một bộ máy cầm quyền có nhiều quyết sách sai trái và quan liêu, tham nhũng nặng; một “bộ phận không nhỏ” trong bộ máy lợi dụng quyền lực (cả quyền cai trị và quyền sử dụng, định đoạt đất đai, tài nguyên, tài sản công) cấu kết với một số nhà kinh doanh làm giàu bằng nhiều thủ đoạn bất minh (cả trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân), hình thành các nhóm lợi ích bất chính, xâm phạm quyền lợi của nhân dân, dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo quá bất công ở nước ta. Không ít người trong giới cầm quyền các cấp cùng với các nhóm lợi ích và sự hậu thuẫn của thế lực bên ngoài đang dựa vào bạo lực cùng nhiều thủ đoạn không chính đáng để duy trì quyền thống trị đất nước theo thể chế toàn trị, có phần do tư duy giáo điều, bảo thủ, nhưng phần quan trọng hơn, phổ biến hơn là do muốn bảo vệ và giành thêm lợi ích riêng bất chấp lợi ích chung của đất nước, của dân tộc...

Để vượt qua những thách thức hiểm nghèo đối với đất nước và dân tộc, giải pháp cơ bản là phải cải cách thể chế chính trị, chuyển từ toàn trị sang dân chủ …”

Điều đáng tiếc là những đòi hỏi thượng dẫn, xem ra, đều quá sức “chịu đựng” của chế độ hiện hành. Mâu thuẫn này khiến cho tình trạng xã hội Việt Nam xem ra có vẻ lôi thôi lắm, và e là sẽ còn lôi thôi lâu, cũng như (chắc chắn) sẽ lôi thôi lớn – trong tương lai gần.

Ông Trần Huỳnh Duy Thức, trước khi trở thành một tù nhân lương tâm, đã bàn luận về tình huống lưỡng nan hiện tại như sau:

“Trung quốc và Việt Nam... không thể tiêu hóa nổi kết quả đương nhiên của sự tiến hóa do vận động của nền kinh tế thị trường vốn bắt buộc đòi hỏi một thể chế chính trị ngày càng dân chủ... Mặc dù hai nước này đã chấp nhận kinh tế thị trường và nhận hưởng công trạng của nó, nhưng họ dường như không thấy được quy luật này diễn biến không thể đảo ngược như thế nào và nó sẽ đẩy tất cả các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị đến đâu. Nên họ kịch liệt chống lại sự tiến hóa tất yếu này...”

Ông Trần Huỳnh Duy Thức bị bắt vào ngày 24 tháng 5 năm 2009. Hơn ba năm đã trôi qua. Từ đó đến nay, cả đống nước sông (cùng nước suối, nước mưa, và nước mắt) đã ào ạt chẩy qua cầu và qua cống. Nhiều sự kiện đã xẩy ra khiến cho thái độ “kịch liệt chống lại sự tiến hóa tất yếu này” của Hà Nội – chắc chắn – sẽ không thể kéo dài lâu nữa, ít nhất thì nó cũng không thể lâu bằng bản án 16 năm tù mà chế độ này đã dành cho ông.

Câu hỏi đặt ra người Việt sẽ làm gì sau đó, sau khi những kẻ cầm quyền hiện tại buộc phải buông tay hay thay đổi? Tương lai thường không tốt đẹp, hay sáng sủa gì cho lắm, đối với những ai không sẵn sàng để chờ đón nó.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.