Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, có trụ sở tại Paris, vừa gửi bản Thông cáo báo chí cho VNN, với nội dung như sau:
".... Mỗi tuần hai lần, nhiều đoàn cứu trợ khác của Viện Hóa Đạo cũng đã không ngừng về đồng bằng sông Cửu Long phân phát tặng phẩm. Các đoàn này do các Thượng tọa Thích Không Tánh, Thích Long Trình, Thích Quảng Huệ, Thích Nguyên Lý, Ni sư Như Như, Sư Cô Như Tín, v.v... hướng dẫn.
Sau hai lần Phái đoàn Cứu trợ của Viện Hóa Đạo bị ngăn cấm và câu lưu tại Long An và Vĩnh Hội đông (An Phú) các ngày 21.9 và 7.10.2000, dư luận quốc tế đã lưu tâm theo dõi và đồng loạt phản đối nhà cầm quyền Hà Nội. Đặc biệt các ông Patrick Baudouin, Chủ tịch Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH, International Federation of Human Rights), và Eric Sottas, Giám đốc Đài Quan sát Bảo vệ Người đấu tranh cho Nhân quyền (OMCT, The Observatory for the Protection of Human Rights Defenders) đã viết thư chung ngày 3.11.2000 gửi ông Trần Đức Lương, Chủ tịch CHXHCNVN, phản đối sự vụ : "Đài Quan sát Bảo vệ Người đấu tranh cho Nhân quyền - một chương trình phối hợp giữa Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH) và Đài Quan sát (OMCT) - xin thông báo đến Ngài nỗi lo lắng khốc liệt của chúng tôi về việc đối xử mà các Tăng sĩ và Phật tử, thành viên thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, phải chịu đựng, trong đó có Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Những vị này tổ chức cứu trợ nạn nhân bị lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long, nạn lụt khủng khiếp nhất từ 40 năm quạ (...) Trong số 50 thành viên mà Phái đoàn cứu trợ dự tính lên đường, chỉ có 12 người đi lọt. Trong khi đang phân phát tặng phẩm ở huyện An Phú (ngày 7.10.2000), họ đã bị công an chận bắt, câu lưu suốt 12 tiếng đồng hồ trên trạm sông và thẩm cung từng người. Cuộc câu lưu ấy đã khiến Hòa thượng Thích Quảng Độ, 73 tuổi, yếu mệt, đau nặng.
"(...) Đài Quan sát xin nhắc lại rằng Hòa thượng Thích Quảng Độ bị xử 5 năm tù giam và 5 năm quản chế vì đã tổ chức một đoàn cứu trợ nạn nhân lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long hồi tháng 10 năm 1994. Trong đợt đặc xá của chính phủ, Hòa thượng được trả tự do tháng 9 năm 1998, nhưng vẫn nằm trong tình trạng quản thúc. Tổng cộng những năm tháng bị bắt, bị cầm tù, bị lưu đày biệt xứ trong 20 năm ròng chỉ vì đã bảo vệ nhân quyền, tự do tôn giáo và dân chủ tại Việt Nam. Thượng tọa Thích Không Tánh, cũng thế, hơn 15 năm tù với những lý do tương tự.
"Đài Quan sát nhấn mạnh rằng những sự kiện nêu trên là một chướng ngại nghiêm trọng đối với Tuyên ngôn về những Người bảo vệ Nhân quyền, được chuẩn y tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 9.12.1998, nêu rõ tại điều 1 rằng "xuất phát từ cá nhân hay kết hợp với những kẻ khác, mỗi người đều có quyền làm thăng tiến sự bảo vệ và thực hiện nhân quyền cùng những tự do căn bản trên phương diện quốc gia và quốc tế".
"Do đó, Đài Quan sát xin nhà cầm quyền tối cao của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chấm dứt mọi sách nhiễu đối với các thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đặc biệt đối với Hòa thượng Thích Quảng Độ và Thượng tọa Thích Không Tánh, và bảo đảm cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được hoàn toàn tự do theo đuổi các sinh hoạt bảo vệ nhân quyền cũng như trong công tác cứu trợ các nạn nhân". Bản "Quyết Nghị về vấn đề Việt Nam" của Quốc hội Âu châu ngày 16.11.2000 cũng yêu sách như thế trong điều 6 : "Vì quyền lợi của những nạn nhân lũ lụt hiện nay tại đồng bằng sông Cửu Long, Quốc hội Âu châu thúc giục chính quyền Việt Nam, để cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng như các tổ chức tôn giáo hay không tôn giáo, được góp phần vào việc cứu trợ các người lâm nạn".
Ba tiếng nói trên đây tượng trưng cho rất nhiều kiến nghị, văn thư khắp thế giới gửi về Hà Nội phản đối. Nhờ vậy, sau hai lần ngăn cấm vào các ngày 21.9 và 7.10.2000, các đoàn cứu trợ của Viện Hóa Đạo từ Saigon cũng như các đoàn đến từ miền Trung thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã có thể tiếp tục cứu trợ trong suốt hai tháng 10 và 11 vừa qua. Và cuộc cứu trợ vẫn còn tiếp tục. Sự kiện này chứng tỏ dư luận quốc tế có khả năng áp lực để thay đổi những cư xử nghịch lý và độc tài ở trong nuớc. Hơn thế nữa, sự phục hồi quyền sinh hoạt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đang được công nhận trong thực tế (de facto), tuy chưa được minh định trên mặt pháp lý (de juris). Nhưng đó đã là bước đầu chuyển biến. Nhất là sự chuyển biến ấy mang ý nghĩa chính trị của con đường hành động "bất phục tùng dân sự " (civil disobedience) : Nhà nuớc ra lệnh mọi cứu trợ phải thông qua 3 cơ quan chính quyền ; Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị giải thể trong thực tế từ sau năm 1975 (dù không một văn kiện nào của Nhà nuớc cộng sản xác nhận) ; Hòa thượng Thích Quảng Độ bị đặt trong tình trạng quản chế. Ba lý do mà pháp lý của nền độc tài chuyên chế cấm đoán. Thế nhưng qua hành động cầm đầu Phái đoàn Viện Hóa Đạo về huyện An Phú cứu trợ ngày 6.10.2000, rồi liên tiếp trong hai ngày 15 và 17.11.2000, Hòa thượng Thích Quảng Độ đã "bất phục tùng dân sự" để phá vỡ các nghịch lý của chế độ. Một hành động thể hiện sự tự do đi lại của người dân phải được công nhận, tự do cứu trợ người đồng bào lâm nạn của mọi đoàn thể không được cấm đoán, tự do thực hiện ý chí cứu nguy đất nuớc của mỗi công dân là quyền bất khả xâm phạm, tự do phát biểu chính kiến một cách bất khuất, không sợ hãi, là động cơ của người trí thức".