Hỏi (Ông Thán Văn Tình): Vào dịp Giáng Sinh vừa qua, tôi cùng gia đình đi Philippines để thăm một người bạn thân. Trong thời gian lưu ngụ tại Manila, tôi có yêu cầu bạn tôi mua cho tôi một con chó giống Shepherd để tôi gởi tặng cho một người bạn tại Việt Nam như đã hứa.
Sau khi mua được con chó giống loại này, chúng tôi đã làm tất cả các thủ tục cần thiết tại một đại lý chuyên vận chuyển hàng hóa bằng đường biển để gởi con chó giống Shepherd này về Việt Nam bằng đường tàu trước khi chúng tôi trở lại Úc.
Tuy nhiên, cách đây chừng 4 tuần lễ tôi có nhận được một bức thư của công ty vận chuyển bằng đường biển tại Manila báo cho biết là con chó mà chúng tôi mướn công ty chuyển về Việt Nam đã bị chết trên chuyến hành trình, có lẽ vì do trúng nhằm hóa chất. Công ty này còn cho biết là họ sẽ báo cho chúng tôi biết về nguyên nhân gây ra cái chết này sau khi việc điều tra kết thúc, vì còn một số hàng hóa khác trên chuyến tàu cũng bị hư hỏng do hóa chất gây ra. Đồng thời họ hoàn trả lại tiền cước phí cho chúng tôi.
Trước khi chúng tôi ký gởi để con chó giống shepherd được chuyển về Việt Nam, chúng tôi đã không đóng bảo hiểm gì cho con chó này cả. Tôi cũng không đọc kỹ những giấy tờ mà họ yêu cầu tôi phải ký trước khi công ty của họ có thể vận chuyển con chó đó về Việt Nam. Xin LS cho biết là tôi có quyền đòi họ bồi hoàn tiền thiệt hại cho chúng tôi hay không"
Trả lời: “Theo luật mậu dịch quốc tế” (in international trade law), các đại lý, tư nhân hoặc công ty mướn tàu theo “hợp đồng mướn tàu” (charter-party [or charterparty]) phải chịu “trách nhiệm mặc nhiên” (implied obligation) là không được chuyên chở các loại “hàng nguy hiểm” (dangeous goods).
[Hợp đồng mướn tàu là hợp đồng theo đó tàu được cho thương gia mướn nhằm mục đích vận chuyển hàng hóa từ cảng này đến cảng khác. (Charterparty is a contract by which a ship is let to a merchant for the purpose of transporting goods from one port to another)].
Trách nhiệm của “công ty vận chuyển bằng đường tàu” (the shipper’s liability) về các loại hàng nguy hiểm đã được căn cứ vào án lệ.
Cũng theo luật mậu địch quốc tế, người mướn tàu phải chịu trách nhiệm mặc nhiên này, ngay cả trong trường hợp vị thuyền trưởng đã chấp nhận để hàng hóa được vận chuyển lên tàu, ngoại trừ vị thuyền trưởng đã hành động một cách không hợp lý khi cho phép các loại hàng nguy hiểm được chất lên tàu.
Nếu vị thuyền trưởng chấp nhận để cho các loại hàng nguy hiểm được chất lên tàu, điều này cũng sẽ không miễn trách nhiệm được cho “người mướn tàu” (charterer), ngoại trừ vị thuyền trưởng đã cố ý làm điều đó.
Thỉnh thoảng cũng có những hợp đồng mướn tàu cho phép người mướn vận chuyển các loại hàng nguy hiểm. Trong trường hợp này, người mướn tàu có thể chuyên chở các loại hàng nguy hiểm với điều kiện là phải báo sự việc đó cho viên thuyền trưởng biết để đương sự đồng ý về sự vận chuyển các loại hàng này.
Trong vụ Brass v. Maitland (1857) 119 ER. Trong vụ đó, người chủ các kiện hàng đã vận chuyển bằng tàu loại “bột tẩy” (bleaching powder) chứa trong các thùng gỗ được gởi đến bởi công ty cung cấp. Theo đó các thùng chứa không có khuyết hỏng nào.
Trong suốt cuộc hải hành, bột tẩy bắt đầu tiết ra hóa chất làm lũng thùng gỗ, và đỗ tung tóe lên các hàng hóa khác được sắp xếp kế bên các thùng bột tẩy này.
Người chủ tàu phải chịu trách nhiệm về việc trả tiền bồi thường thiệt hại cho các hàng hóa đã bị bột tẩy làm hư hỏng.
Sau khi trả tiền cho những hàng hóa bị thiệt hại đó, chủ tàu đã kiện người chủ các thùng bột tẩy, vì cho rằng người chủ các thùng bột tẩy đã vi phạm “nghĩa vụ mặc nhiên” (implied obligation) là không được chuyển các loại hàng nguy hiểm bằng tàu. Vụ khiếu kiện này đã căn cứ vào 2 lý do nêu sau:
Lý do thứ nhất là người chủ hàng đã cho vận chuyển loại hàng mà đương sự biết là loại hàng nguy hiểm, và đóng thùng không được kỹ lưỡng. Về lý do này, người chủ hàng đã bào chữa rằng hàng hóa đã được chuyển lên tàu trong trạng thái nguyên vẹn như đương sự đã nhận được từ công ty cung cấp. Tuy nhiên tòa đã cho rằng lời biện minh đó không cần thiết.
Lý do thứ hai là người chủ hàng đã cho vận chuyển loại hàng nguy hiểm lên tàu mà không báo cho vị thuyền trưởng biết về sự nguy hiểm đó của hàng hóa.
Tòa đã đồng ý rằng “người chủ hàng hóa [chở trên tàu thủy]” (the cargo owner) có nhiệm vụ báo cho vị thuyền trưởng biết về tính chất nguy hiểm của hàng hóa nếu người chủ hàng biết được điều đó.
Cuối cùng tòa đã đưa ra phán quyết rằng người chủ hàng phải chịu trách nhiệm đối với vị thuyền trưởng ngay cả trong trường hợp người chủ hàng không biết được tính chất nguy hiểm của hàng hóa ký gởi.
Quan điểm này của tòa đã làm cho trách nhiệm của người chủ hàng đối với chủ tàu là “một trách nhiệm tuyệt đối” (an abosolute liability).
Thuật từ “Hàng hóa nguy hiểm” (dangerous goods) còn được giải thích để bổ nghĩa trong vụ Mitchell, Cotts & Co kiện Steel Bros & Co Ltd. Trong vụ đó, công ty vận chuyển bằng tàu đã chuyển tải gạo trên một chiếc tàu được thuê mướn từ công ty của nguyên đơn để đến Piraeus, biết được rằng hàng hóa sẽ không được bốc dỡ tại cảng Piraeus ngoại trừ phải xin phép bốc dỡ trước với chính quyền Anh Quốc.
Công ty vận chuyển bằng tàu biết rằng họ không có giấy phép đó nhưng hy vọng rằng họ sẽ có thể xin được giấy phép đó trước khi tàu cập bến.
Chính quyền Anh Quốc từ chối cấp giấy phép để công ty bốc hàng lên bờ, và thế là tàu đã bị chậm trễ.
Chủ tàu bèn kiện người chủ hàng về sự chậm trễ đó, vì cho rằng sự chậm trễ gây ra là do hàng nguy hiểm được vận chuyển trên tàu. Thẩm Phán Atkin đã cho rằng hàng hóa được vận chuyển trên tàu là hàng nguy hiểm vì chúng đã không được chính quyền cho phép bốc dỡ lên bờ. Ông đã nới rộng nghĩa của “hàng nguy hiểm” như sau:
… người chủ hàng phải chịu trách nhiệm vì đương sự phải bảo đảm rằng đương sự sẽ không đưa lên tàu các loại hàng dín dáng đến những sự nguy hiểm bất thường hoặc gây ra sự chậm trễ mà không thông báo cho chủ tàu biết về loại hàng hóa có thể có sự rủi ro ở trong đó…
Dựa vào luật pháp cũng như các phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng công ty vận chuyển có nhiệm vụ phải bồi hoàn sự thiệt hại mà ông đã phải chịu đựng. Sau đó công ty vận chuyển sẽ đòi lại tiền bồi thường đó từ người chủ hàng. Sự thiệt hại này có thể là giá cả và công sức mà ông đã bỏ ra để đi mua con chó. Tiền thiệt hại này được gọi là “tiền bồi thường thiệt hại đặc biệt” (special damages).
Ngoài tiền thiệt hại đó ra, ông khó có thể đòi “tiền bồi thường thiệt hại tổng quát” (general damages) vì ông khó có thể chứng minh được rằng ông đã phải chịu đựng những đau đớn về tinh thần khi nghe tin con vật thân thương bị chết.
Nếu ông còn thắc mắc điều gì, xin đừng ngần ngại gọi điện thoại cho chúng tôi.
Sau khi mua được con chó giống loại này, chúng tôi đã làm tất cả các thủ tục cần thiết tại một đại lý chuyên vận chuyển hàng hóa bằng đường biển để gởi con chó giống Shepherd này về Việt Nam bằng đường tàu trước khi chúng tôi trở lại Úc.
Tuy nhiên, cách đây chừng 4 tuần lễ tôi có nhận được một bức thư của công ty vận chuyển bằng đường biển tại Manila báo cho biết là con chó mà chúng tôi mướn công ty chuyển về Việt Nam đã bị chết trên chuyến hành trình, có lẽ vì do trúng nhằm hóa chất. Công ty này còn cho biết là họ sẽ báo cho chúng tôi biết về nguyên nhân gây ra cái chết này sau khi việc điều tra kết thúc, vì còn một số hàng hóa khác trên chuyến tàu cũng bị hư hỏng do hóa chất gây ra. Đồng thời họ hoàn trả lại tiền cước phí cho chúng tôi.
Trước khi chúng tôi ký gởi để con chó giống shepherd được chuyển về Việt Nam, chúng tôi đã không đóng bảo hiểm gì cho con chó này cả. Tôi cũng không đọc kỹ những giấy tờ mà họ yêu cầu tôi phải ký trước khi công ty của họ có thể vận chuyển con chó đó về Việt Nam. Xin LS cho biết là tôi có quyền đòi họ bồi hoàn tiền thiệt hại cho chúng tôi hay không"
Trả lời: “Theo luật mậu dịch quốc tế” (in international trade law), các đại lý, tư nhân hoặc công ty mướn tàu theo “hợp đồng mướn tàu” (charter-party [or charterparty]) phải chịu “trách nhiệm mặc nhiên” (implied obligation) là không được chuyên chở các loại “hàng nguy hiểm” (dangeous goods).
[Hợp đồng mướn tàu là hợp đồng theo đó tàu được cho thương gia mướn nhằm mục đích vận chuyển hàng hóa từ cảng này đến cảng khác. (Charterparty is a contract by which a ship is let to a merchant for the purpose of transporting goods from one port to another)].
Trách nhiệm của “công ty vận chuyển bằng đường tàu” (the shipper’s liability) về các loại hàng nguy hiểm đã được căn cứ vào án lệ.
Cũng theo luật mậu địch quốc tế, người mướn tàu phải chịu trách nhiệm mặc nhiên này, ngay cả trong trường hợp vị thuyền trưởng đã chấp nhận để hàng hóa được vận chuyển lên tàu, ngoại trừ vị thuyền trưởng đã hành động một cách không hợp lý khi cho phép các loại hàng nguy hiểm được chất lên tàu.
Nếu vị thuyền trưởng chấp nhận để cho các loại hàng nguy hiểm được chất lên tàu, điều này cũng sẽ không miễn trách nhiệm được cho “người mướn tàu” (charterer), ngoại trừ vị thuyền trưởng đã cố ý làm điều đó.
Thỉnh thoảng cũng có những hợp đồng mướn tàu cho phép người mướn vận chuyển các loại hàng nguy hiểm. Trong trường hợp này, người mướn tàu có thể chuyên chở các loại hàng nguy hiểm với điều kiện là phải báo sự việc đó cho viên thuyền trưởng biết để đương sự đồng ý về sự vận chuyển các loại hàng này.
Trong vụ Brass v. Maitland (1857) 119 ER. Trong vụ đó, người chủ các kiện hàng đã vận chuyển bằng tàu loại “bột tẩy” (bleaching powder) chứa trong các thùng gỗ được gởi đến bởi công ty cung cấp. Theo đó các thùng chứa không có khuyết hỏng nào.
Trong suốt cuộc hải hành, bột tẩy bắt đầu tiết ra hóa chất làm lũng thùng gỗ, và đỗ tung tóe lên các hàng hóa khác được sắp xếp kế bên các thùng bột tẩy này.
Người chủ tàu phải chịu trách nhiệm về việc trả tiền bồi thường thiệt hại cho các hàng hóa đã bị bột tẩy làm hư hỏng.
Sau khi trả tiền cho những hàng hóa bị thiệt hại đó, chủ tàu đã kiện người chủ các thùng bột tẩy, vì cho rằng người chủ các thùng bột tẩy đã vi phạm “nghĩa vụ mặc nhiên” (implied obligation) là không được chuyển các loại hàng nguy hiểm bằng tàu. Vụ khiếu kiện này đã căn cứ vào 2 lý do nêu sau:
Lý do thứ nhất là người chủ hàng đã cho vận chuyển loại hàng mà đương sự biết là loại hàng nguy hiểm, và đóng thùng không được kỹ lưỡng. Về lý do này, người chủ hàng đã bào chữa rằng hàng hóa đã được chuyển lên tàu trong trạng thái nguyên vẹn như đương sự đã nhận được từ công ty cung cấp. Tuy nhiên tòa đã cho rằng lời biện minh đó không cần thiết.
Lý do thứ hai là người chủ hàng đã cho vận chuyển loại hàng nguy hiểm lên tàu mà không báo cho vị thuyền trưởng biết về sự nguy hiểm đó của hàng hóa.
Tòa đã đồng ý rằng “người chủ hàng hóa [chở trên tàu thủy]” (the cargo owner) có nhiệm vụ báo cho vị thuyền trưởng biết về tính chất nguy hiểm của hàng hóa nếu người chủ hàng biết được điều đó.
Cuối cùng tòa đã đưa ra phán quyết rằng người chủ hàng phải chịu trách nhiệm đối với vị thuyền trưởng ngay cả trong trường hợp người chủ hàng không biết được tính chất nguy hiểm của hàng hóa ký gởi.
Quan điểm này của tòa đã làm cho trách nhiệm của người chủ hàng đối với chủ tàu là “một trách nhiệm tuyệt đối” (an abosolute liability).
Thuật từ “Hàng hóa nguy hiểm” (dangerous goods) còn được giải thích để bổ nghĩa trong vụ Mitchell, Cotts & Co kiện Steel Bros & Co Ltd. Trong vụ đó, công ty vận chuyển bằng tàu đã chuyển tải gạo trên một chiếc tàu được thuê mướn từ công ty của nguyên đơn để đến Piraeus, biết được rằng hàng hóa sẽ không được bốc dỡ tại cảng Piraeus ngoại trừ phải xin phép bốc dỡ trước với chính quyền Anh Quốc.
Công ty vận chuyển bằng tàu biết rằng họ không có giấy phép đó nhưng hy vọng rằng họ sẽ có thể xin được giấy phép đó trước khi tàu cập bến.
Chính quyền Anh Quốc từ chối cấp giấy phép để công ty bốc hàng lên bờ, và thế là tàu đã bị chậm trễ.
Chủ tàu bèn kiện người chủ hàng về sự chậm trễ đó, vì cho rằng sự chậm trễ gây ra là do hàng nguy hiểm được vận chuyển trên tàu. Thẩm Phán Atkin đã cho rằng hàng hóa được vận chuyển trên tàu là hàng nguy hiểm vì chúng đã không được chính quyền cho phép bốc dỡ lên bờ. Ông đã nới rộng nghĩa của “hàng nguy hiểm” như sau:
… người chủ hàng phải chịu trách nhiệm vì đương sự phải bảo đảm rằng đương sự sẽ không đưa lên tàu các loại hàng dín dáng đến những sự nguy hiểm bất thường hoặc gây ra sự chậm trễ mà không thông báo cho chủ tàu biết về loại hàng hóa có thể có sự rủi ro ở trong đó…
Dựa vào luật pháp cũng như các phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng công ty vận chuyển có nhiệm vụ phải bồi hoàn sự thiệt hại mà ông đã phải chịu đựng. Sau đó công ty vận chuyển sẽ đòi lại tiền bồi thường đó từ người chủ hàng. Sự thiệt hại này có thể là giá cả và công sức mà ông đã bỏ ra để đi mua con chó. Tiền thiệt hại này được gọi là “tiền bồi thường thiệt hại đặc biệt” (special damages).
Ngoài tiền thiệt hại đó ra, ông khó có thể đòi “tiền bồi thường thiệt hại tổng quát” (general damages) vì ông khó có thể chứng minh được rằng ông đã phải chịu đựng những đau đớn về tinh thần khi nghe tin con vật thân thương bị chết.
Nếu ông còn thắc mắc điều gì, xin đừng ngần ngại gọi điện thoại cho chúng tôi.
Gửi ý kiến của bạn