Sách xưa có dạy cách xem tướng người thì phải căn cứ vào cái động tâm của người ở lúc được mất và vinh nhục thì có thể biết độ lượng của người ấy lớn hay nhỏ, rồi sau mới thấy được tương lai của người ấy. Nhân sinh Bát Tự Pháp muốn biết tương lai đời người thì lại phải cần rõ đủ 8 chử của Thiên Can và Địa Chi. Riêng Khoa Tử vi thì chỉ cần Năm Sinh, chứ không cần phải đủ Thiên Can Địa Chi của Ngày Tháng và Giờ sinh mới luận được.
Năm nay Tân Tỵ, ngày Mồng Một Tết đầu năm là ngày 24 tháng 1 của Dương Lịch 2001, nhưng nếu tính từ Tiết Lập Xuân thì phải chờ đến 2 giờ sáng ngày Mậu Tuất, 12 tháng giêng tức là ngày 4 tháng 2 năm Dương lịch 2001 thì mới khởi đầu năm Tân Tỵ. Xưa Phục Hy tạo ra tám quẻ gọi là Bát Quái. Mỗi quẻ ba hào, tám quẻ 24 hào tượng trưng cho 24 tiết khí. Về sau, Chu Công định ra giờ. 24 tiết khí thành 72 Hậu. 5 ngaỳ là 1 Hậu. Tháng 30 ngày thì có 6 Hậu hay cứ 3 Hậu hoặc15 ngày thì thành 1 Khí. Nếu Quý Dậu 8 năm trước, lập xuân ngày Thìn, Tuất xung Thìn thì Tân Tỵ 8 năm sau lập xuân phải là ngày Tuất. Kỷ Sửu 2009 tức là 8 năm sau nữa thì lập xuân lại phải là ngày Thìn. Ngày mùng 1 Tết của Quý Dậu 8 năm trước là ngày Giáp Thìn. Giáp cách 3 là Đinh. Thìn cách 6 là Hợi, thì năm nay Tân Tỵ ngày mùng 1 Tết phải là ngày Đinh Hợi. Như vậy, người nào sinh từ ngày Đinh Hợi cho đến ngày Mậu Tuất tháng giêng thì Trụ Năm mỗi Khoa sẽ tính một khác.
Trên trời, Thiên Can Tân hành Kim là Thái Âm, dưới đất là Châu Sa, Ngọc Bích. Bẫm thụ là tinh nguyệt ở nơi kim thanh thủy tú, thổ khí phong hậu. Gặp các năm Tân thì nên hành vận Phương Tây và Phương Bắc. Hành Phương Đông và Nam lại không may gặp thêm Đinh hỏa thì như đem Trân Châu, Ngọc Bích vào lửa nung cháy thì Ngọc hết còn hữu dụng" Gặp Hỏa vận hoặc tam hợp Dần Ngọ Tuất, Sát vượng thì người Suy. Ngũ thường thì Tân Kim trọng Nghĩa. Cốt cách cương cường uy vũ. Sắc Kim màu Trắng, hình Tròn, tính Ráo, vị Cay. Ngũ Tạng thì Kim thuộc Phế mà Phế là gốc của Khí. Năm nay Tân hành Kim, Tân Tỵ có âm cũng Kim, xem chừng Kim thái quá. Khoa Nhân Sinh Bát Tự trọng số trung hòa là vì bất cập và thái quá đều không thể gọi là tốt. Phế hành Kim, Thận hành Thủy. Ngũ hành Kim đi sinh cho Thủy thì rõ ràng Phế là tạng Mẹ mà Thận là tạng con. Hơi thở Ra đưa khí Trong lên mà chuyển ra lông da. Hơi thở Vào dẫn khí Trong đưa xuống về Thận.
Như vậy, muốn biết Kim bất cập hay Thái quá thì chỉ cần xem lông và da thịt có mượt mà hay không thì rõ biết. Lông mịn màng, da thơm tho mát rợi thì chắc chắn Kim được trung hòa. Kim mà Thái quá thì sẽ sinh nhiều Thủy, mà thủy thì màu đen cho nên da phải thâm, lông phải cứng. Lông lá mà lưa thưa tơ liễu, da thịt bèo nhèo bạc nhược thì y rằng Kim bất cập. Phế Kim bất cập hay thái quá thì cũng ảnh hưởng đến Thận. Hải Thượng Lản Ông dạy rằng vì Số bắt đầu ở Trên, chót cùng ở phía Dưới, cho nên hể thấy Bệnh ở Trên thì nên chữa phía Dưới, bệnh phía Dưới thì nên chữa ở Trên. Vậy nếu như Thận hư mà phải cầu đến Viagra hoặc Hoàn Hải Cẩu thì nên trách cứ vào Phế. Năm nay Kim vượng, Thủy Tướng thì Thận Bộ phải tốt, da phải thơm, lông phải mướt. Da thịt không thơm, lông không mướt xem chừng bộ Phế bị hư, bị tích, bị bế thì nên Bổ Phế chứ không nên cứ tập trung Bổ Thận. Vị nào lỡ phải mua trử nhiều Viagra phòng thân thì nên để dành sang năm Ngọ hảy xài. Gặp đúng năm Tân mà phải vẫn cứ mãi tăng lực cho Thận bộ thì không cần xũ quẻ cũng có thể biết là cuộc đời đang dần đi vào ngõ hẻm của hư không.
Ngũ hành Tương ngộ Kim gặp Kim giàu sang phú quý. Vị nào mạng Kim thì nên tìm người mạng Kim mà lấy. Trước khi lấy nhau, cần xem kỷ Kim này có hữu khí hay không. Thấy da thịt thơm tho, lông mướt mượt mà thì Kim mới vượng. Da bèo nhèo, lông rể tre là Kim hưu tù vô khí thì nhớ tìm đường mà thoái. Ngũ hành tương khắc thì Kim khắc Mộc. Mộc chủ về Gan. Vị nào mạng Mộc năm nay cần phải xem chừng: Nhẹ dị ứng ngoài da, nặng thì Cổ trướng Xơ gan.Bệnh về Gan thì nên tìm mấy vị Đông Y mà bắt mạch. Tay trái bộ Quan là định vị của Gan và Mật. Trầm là Gan, Phù là Mật. Phù là tay mới khẻ để lên da là thấy ngay mạch, chủ bệnh ngoài da không đáng ngại vì là Biểu bệnh. Nhưng lấy tay ấn mạnh xuống mới thấy mạch thì đúng là mạch Trầm, là Lý bệnh, chủ ở bề trong thì hảy coi chừng lá Gan. Gan mà te tua sắp kỳ cổ trướng thì thấy mạch Huyền và Đoản. Huyền là dây cung cho nên nhắc ngón tay ấn lên, ấn xuống mà thấy căng thẳng như dây cung thì đúng là mạch Huyền. Đặt tay vào bộ vị, thấy mạch ngắn ngủi thì chính là mạch Đoản. Chứng Trướng đều lấy bộ Quan làm chủ, cho nên hể Gan mà te tua thì người sẽ bị phù bị trướng. Năm nay hành Kim mà Gan mạch Đoản, Huyền thì mùa Thu ngày Canh trở nặng, ngày Tân ngày Dậu đi hui nhị tì. Nhớ Mạch Huyền thì sắc phải xanh. Sắc xanh cũng là của Can vì Can hành Mộc mà xanh là màu của Mộc, cho nên hể thấy mạch Huyền mà sắc xanh là Mạch còn thuận, là bệnh còn có thể chửa được. Chờ đến mạch Phổi, sắc Trắng hành Kim thì hết cách. Cẩn thận, bộ tả Quan mà đi Phù thì chưa hẳn là Gan xơ, mà xem chừng có thể là Mật, hoặc có thể là mạch của người phá sản vong gia hay chính là Mạch của kẻ Tán Tài ở thời mật vận. Nhớ tìm Đông Y trước, chứ Tây Y máy móc hiện đại cũng bó tay về Gan. Bệnh về Gan mà chờ cho Tây Y phát hiện được thì Gan đã bèo nhèo xơ mướp.
Mấy năm trước cứ ngỡ là chỉ Việt Nam mới có lá Chó Đẻ Răng Cưa, không ngờ ở đất Mỹ cũng muôn trùng. Vị nào bị Xơ Gan thì rán mà tìm cho ra Lá Chó Đẻ Răng Cưa sắc uống. Vị nào đã bị trướng mà sau khi uống Lá Chó Đẻ Răng Cưa một hai ngày, thấy nước trong người xuất ra lai láng, nhiệt độ tăng cao thì yên chí, tin mừng, bệnh sẽ khỏi. Thấy nhiệt tăng mà đưa vào cấp cứu thì người nhà đi tìm hồ sơ Life Insurance người bệnh cất dấu ở đâu mà hẹn ngày đi lảnh là vừa. Theo vòng Trường sinh thì Kim dưỡng ở Thìn, trường sinh tại Tỵ. Kim mới sinh, hình chất sơ thành chưa vững chắc, cho nên gọi là Bạch Lạp Kim. Bạch lạp là hợp Kim của Thiếc và Chì chứ không phải là sáp hay đèn nến bạch lạp. Dù sao sáp hay nến bạch lạp và Bạch lạp kim cũng đồng tính không bền. Hợp kim nào có thiếc thì độ nóng chảy cũng phải thấp. Hợp Kim nào có chì thì cũng dòn dễ vỡ. Tay thợ Bạc nào cũng biết bài Hội gồm thiếc, vàng và bạc gia thêm ít đồng để làm vẫy hàn vàng, là vì vẫy hàn thì cần độ nóng chảy phải thấp. Tay thợ Vàng nào cũng sợ Chì hơn sợ cọp. Là vì nếu gia thêm Chì vào Vàng, Vàng sẽ bóng lưỡng, đẹp như mơ. Nhưng hể vàng này bị búa nhẹ trên đe thì Vàng vở tung vỡ tóe nát như tương Tàu. Nhớ là năm nay Bạch Lạp Kim vốn không bền thì nên lấy chử Đức làm trọng, là vì không gì bền vững bằng chử Đức. Thập Can: Giáp, Aãt, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý thì 5 Can: Giáp, Bính, Mậu, Canh và Nhâm thuộc Dương. Aãt, Đinh, Kỷ, Tân và Quý thuộc Âm. Dương là Quân Đạo, Âm là Thần Đạo. Quân Đạo thì tự lấy cái Đức của chính mình mà xữ. Âm thì phải lấy Can Hợp làm Đức. Tân Bính hợp hóa Thủy . Năm Tân thì Bính là Tuế Đức. Vị nào tuổi Bính được hưỡng Tuế Đức là Thượng Thượng Cát Thần kể cả tuổi Bính Thìn cho dù Thìn đang bị Thiên Không án ngữ cũng không thể làm Không là vì Tuế Đức hoàn toàn không kỵ. Tuổi Bính lại cùng Tuổi Mậu năm nay hưỡng thêm Lộc Tồn. Tỵ cũng lại là đất Thiên quan của Bính, đất Aãn của Tân và đất Phúc của Tân và Quý.
Tỵ Thìn là đất Tuần Không của con nhà Giáp Ngọ, cho nên các tuổi Giáp Ngọ, Ất Mùi, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần và Quý Mão, trừ tuổi Bính Thân đều ít nhiều bị ảnh hưỡng. Thìn Tỵ còn là đất Triệt Lộ của Bính Tân. Bính thêm một lần thoát hiễm cũng lại nhờ vào Tuế Đức, nhưng Lộc Tồn thì ít nhiều cũng bị giãm. Cụ Thiên Lương cho rằng Mã bị Triệt là loại Mã què. Nhưng Mã què mà gặp Tuần Không thì Mã này lại đắc dụng. Theo cụ thì Mã tại Tỵ sẽ là Bạch Mã của những người mạng Kim bị Tuần bị Triệt. Tuần Không con nhà Giáp Ngọ, Triệt lộ con nhà Bính Tân thì buồn 5 phút, chẳng có vị nào mạng Kim đủ tiêu chuẩn để có thể xữ dụng Bạch Mã của năm nay. Gặp năm Bính Tân thì tìm Mậu khởi. Gia Mậu lên Tý đếm xuôi đến Thìn thì Thìn sẽ lâm vào Can Nhâm. Nhâm hành Thủy cho nên Bính Tân Hóa Thủy là vậy. Các Vị mạng Thủy năm nay được ăn theo Tuế Đức thì không cơm cũng phải có cháo. Tăng quan thì cần Ấn. Ấn đang trong tay Tân. Tân hưỡng thêm Phi thiên Lộc lại cùng Quý chia Phúc thì cho dù ở đất Triệt lộ, năm nay đường hoạn lộ của Tân chắc chắn phải hanh thông. Tiến chức thì cần Mã thì Mã trong tay của Các tuổi Hợi, Mão, Mùi. Mã Tỵ chính ra là Mã của người Mạng Hỏa, người mạng Thổ được hưỡng lợi thì cho dù Mã trong tay Hợi Mão Mùi thì người Mạng Hỏa và Thổ cũng vẫn được chia Lộc xẻ Lời. Nhớ là Lộc không bao giờ tọa tại 4 cung Tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi. Tuất phải nhờ vào Tuế Lộc nhưng vì Tuất đứng trước Tuế 5 thời cho nên gặp phải Tiểu hao mà cũng tại Tiểu hao cho nên Lộc Tồn bị giãm. Tuất được Lộc mà bị hao cũng tại cái Hồng Loan ác nghiệt lại thêm Phá, Hỉ xung chiếu từ Hợi cung. Tuất trẻ thì được cãm thông, Tuất già thì tại cái nết. Nếu kỷ thì phải tính thêm Tuế chi Đức. Tuế chi Đức căn cứ vào vòng Thiên Can, luôn đứng trước Thái Tuế 5 thời. Tuế Tân thì Bính là Tuế chi Đức. Bính và Tân cũng là Can hợp thì rõ ràng Bính Tuất năm nay quả nhiều may mắn, cho dù Tuất cũng là đất của Tử Phù, Tiểu hao. Tiểu hao là cái hao nho nhỏ để giúp, cứu người thì cũng là Đức vậy.
Tuổi Thìn ngoại trừ Can Bính, còn tất cả đều không có Lộc mà lại bị Cô, bị Kiếp thêm Thiên Không xung chiếu bởi Hồng Loan. May mà cụ Thiên Lương có dạy gặp trường hợp này Thiên Không chỉ là Khách, Hồng Loan mới là chủ thì Tuổi Thìn không phải bị trắng tay. Ngược lại, tuổi Thìn được gặp Sắc Sắc Không Không thì nếu không khoác được tấm Cà Sa, ít ra cái Tâm cũng được Tịnh . Nhớ năm nay Thìn đang được ở vào cái thế sinh nhập của bộ ba Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức thì Thiên Hĩ chắc chắn phải được đi kèm với Tam hoặc Tứ Đức. Thiên Hĩ mà ngộ Kiếp Không thì đúng là Hĩ có cũng như không. Có rồi không, không rồi lại có, chỉ tồn đọng được cái Đức mà luận là Sắc Sắc Không Không thì tại Cụ Thiên Lương có nhiều Phật Tâm hay chính Tuổi Thìn năm nay có nhiều Tâm Phật" Thủy Thần Tấu Thư là Quý Thần của Thái Tuế, nắm viếc ghi chép tấu trình trong năm đang tại Đông Nam cung Tốn thì Thìn nào đang là công chức ngày hai buổi lại có cơ hội tiến thân. Mậu Thìn mạng Mộc sợ năm nay bệnh lê thê vì oái oăn của Bệnh Phù luôn phục sau Tuế 1 thời. Riêng cho tất cả những ai sinh nhằm vào tháng 10 và tháng 11 kể cả tuổi Mậu Thìn năm nay có thể tai qua nạn khỏi, là vì Tỵ là đất Thiên Giải của người sinh tháng 10 và là Địa Giãi cho những ai sinh vào tháng 11. Trước Tuế 4 thời là chốn của Quan Phù, là Văn Chức, là Hỹ Thần của Thái Tuế. Sau Thái Tuế 4 thời là đất của Bạch Hổ Quyền Uy.