Hôm nay,  

Trang Sử Việt: Nòi Giống Việt Nam “Rồng Tiên”

11/12/201200:00:00(Xem: 7302)
(Lời tâm tình: “Trang Sử Việt” chỉ khái quát các Nhân vật lịch sử, không đi sâu từng chi tiết của Nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung của đề tài đã biên soạn. Xin độc giả đừng xem đấy là chính sử, vì “Thiết nghĩ” chỉ là ý kiến riêng rẽ của tác giả mà thôi. “Trang Sử Việt” đăng vào ngày thứ Ba (Tuesday) mỗi tuần - NLY).

NÒI GIỐNG VIỆT NAM “RỒNG TIÊN”

Theo truyền thuyết dân tộc Việt Nam thủy tổ là Kinh Dương Vương, hiện còn ngôi mộ tại làng An Lữ, Thuận Thành, Hà Bắc.

Cháu ba đời vua Viêm Đế là Đế Minh, đi tuần phương Nam, đến núi Ngũ Linh (thuộc tỉnh Hồ Nam của Tàu bây giờ) cưới con gái bà Vũ Tiên, sinh ra Lộc Tục là người đoan chính, vua cha rất yêu quí muốn lập làm kế thừa, nhưng Lộc Tục nhường ngôi cho anh là Nghi. Vua cha phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, đặt tên nước là Xích Quỷ. Bờ cõi nước Xích Quỷ lúc bấy giờ, phía bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) và phía đông giáp biển Đông (Thái Bình Dương).

Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ khoảng năm Nhâm tuất 2879 (TCN). Vua lấy con gái Động Đình Quân, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm lên ngôi vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, tương truyền bà Âu Cơ sinh ra một bọc có 100 trứng, rồi nở ra 100 con. Do đó người Việt gọi nhau là “đồng bào”, có nghĩa là cùng ở một bào thai của mẹ, từ đấy có điển tích là “Con Rồng, Cháu Tiên”.

Lúc các con đã khôn lớn, Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta với nàng thương nhau tha thiết, nhưng ta là giống Rồng, còn nàng là giống Tiên, nên thủy hỏa bất hợp, nếu mình mãi sống bên nhau, e rằng sẽ gặp khó khăn. Nay, ta đem 50 con xuống vùng đồng bằng ven biển Đông để lập nghiệp, còn nàng đem 50 con lên miền núi sinh sống”. Từ đấy, chia nhau ra cai trị các nơi, đấy là thủy tổ Bách Việt. Người con trưởng làm vua ở Phong Châu, lập ra họ Hồng Bàng lấy hiệu là Hùng Vương, tên nước là Văn Lang. Vua Hùng đóng đô ở Phong Châu (huyện Bạch Hạc, Vĩnh Yên), truyền được 18 Chi (47 Đời). Hùng Vương, hay vua Hùng, là tên hiệu của các vị vua nước Văn Lang của người Lạc Việt.

Xã hội Việt Nam dựa trên 3 yếu tố làm nền tảng: Nhà, Làng, Nước. Từ cách ứng xử trong gia đình có cha mẹ, ông bà dìu dắt; đến khuôn khổ làng xã bảo bọc. Kế đến là người đứng đầu của quốc gia, mà thuỷ tổ là Quốc tổ Hùng Vương.

Tương truyền rằng: Ngọc phả Hùng Vương soạn năm 986, vào thời Lê Đại Hành, tức là năm Thiên Phúc nguyên niên. Vào năm 1470, vua Lê Thánh Tông cho lập “Ngọc phả Hùng

Vương”, coi đó là Vua thủy tổ của dân tộc Việt Nam. Và sử gia Ngô Sĩ Liên đã biên soạn Quốc tổ Hùng Vương vào chính sử, mục truyện họ Hồng Bàng, phần ngoại kỷ. Đến thế kỷ 15, thời nhà Lê, hằng năm được tổ chức thờ phụng Quốc tổ Hùng Vương, cho đến ngày nay. Những vị Vua Hùng là Quốc tổ của dân tộc Việt Nam, nhân dân đã lập đền miếu nhiều nơi trên đất nước để thờ phụng. Đến ngày mùng mười tháng 3 (ÂL), đồng bào tổ chức lễ giỗ tổ Hùng Vương khắp nơi rất long trọng.

Nước Văn Lang, thời các vua Hùng, tuy mới lập quốc, nhưng kết hợp được lòng dân, cùng sống hài hoà, bảo bọc, dìu dắt trồng trọt và săn bắn để sinh sống. Đời Hùng Vương thứ nhất, có người dân nước Văn Lang sống bằng nghề chài lưới, thường bị giao long tấn công, vua bảo dân lấy chàm vẽ mình, để thú dữ tưởng là đồng loại không làm hại. Thuyền ở đàng mũi vẽ hai con mắt, để thuỷ quái trông thấy sẽ sợ mà tránh không dám quấy nhiễu.

Lễ giỗ tổ Hùng Vương: 18 chi Hùng Vương đã truyền được 2.622 năm (2879 TCN-258 TCN), gồm có 47 đời vua, như vậy thời đại Hùng Vương ở ngôi dài nhất, so với các triều đại Việt Nam sau này nói riêng và cả các triều đại trên thế nói nói chung.

Lễ giỗ tổ Hùng Vương (xem thêm Họ Hồng Bàng và tỉnh Phú Thọ) là một ngày lễ thiêng liêng, tưởng nhớ các vị vua Hùng và Tiền nhân Việt Nam đã dựng nước và giữ nước. Đây là ngày lễ hội truyền thống của dân tộc. Ngoài ra, trong buổi lễ hội Hùng Vương, người Việt còn tưởng niệm những sự hy sinh cao cả của các Anh hùng, Anh thư VN. Mở đầu buổi lễ, là lễ dâng hương giỗ Tổ Phụ Lạc Long Quân và Tổ Mẫu Âu Cơ là thủy tổ của người Việt, với các nghi lễ trang trọng, thành kính tưởng nhớ công ơn lớn lao dựng và giữ nước của Tiền nhân.

Thời Hùng Vương là một giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử. Chính thời kỳ này đã xây dựng nên một nền tảng dân tộc, với nề nếp văn hóa và truyền thống yêu nước nồng nàn.

Ngày giỗ tổ Hùng Vương đã được công nhận, là một trong những ngày quốc lễ của Việt Nam, thể hiện rõ đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, như một tinh thần văn hoá Việt. Đồng bào Việt Nam có câu lưu truyền từ ngàn xưa:

“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”

Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, con dân Việt luôn thể hiện lòng cung kính, dâng cúng những hoa quả tươi tốt, rượu trà thơm tho. Và không quên những chiếc bánh chưng và bánh giầy truyền thống của Đồng bào Việt.


Nước Văn Lang vào thời các vua Hùng, con trai của vua gọi là Quan lang (Thái tử, Hoàng Tử), con gái của vua gọi là Mỵ nương (Công chúa), quan võ gọi là Lạc tướng, quan văn gọi là Lạc hầu, còn các quan chức vị thấp hơn, gọi là Bố chính, dân chúng gọi là Lạc dân. Nước Văn Lang được chia ra làm 15 bộ:

1. Cửu Chân (Thanh Hóa) 9. Dương Truyền (Hải Dương)

2. Châu Diên (Sơn Tây) 10. Văn Lang (Bạch Hạc, Vĩnh Yên)

3. Phúc Lộc (Sơn Tây) 11. Tân Hưng (Hưng Hóa, Tuyên Quang)

4. Cửu Đức (Hà Tĩnh) 12. Vũ Định (Cao Bằng, Thái Nguyên)

5. Vũ Ninh (Bắc Ninh) 13. Việt Thường (Quảng Bình, QuảngTrị)

6. Lục Hải (Lạng Sơn) 14. Bình Văn (Nay không biết ở đâu)

7. Ninh Hải (Quảng Yên) 15. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam)

8. Hoài Hoan (Nghệ An) Định, Ninh Bình).

* - Thiết nghĩ: Đồng bào VN thờ cúng Quốc tổ Hùng Vương, là một truyền thống độc đáo của dân tộc ta; ít thấy các quốc gia khác trên thế giới có biểu tượng Quốc Tổ, như dân tộc VN. Chúng ta đồng lòng cùng thờ cúng Quốc tổ Hùng Vương, điều đó khẳng định nòi giống Việt Nam có chung một cội nguồn, từ đó tạo thành động lực yêu thương và hỗ tương cộng đồng. Thờ cúng Quốc tổ Hùng Vương là tâm thức của người Việt, từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Theo Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sĩ: “Có người hỏi đẻ ra một bọc trăm trứng, việc ấy có chăng? Xin trả lời rằng: Con rồng sinh ra tự nhiên có cái khác phàm tục, thì việc đẻ trứng có gì là lạ, nhưng cũng là một thuyết không theo lẽ thường”.

Sử sách đã ghi: “Thời Hùng Vương quan võ gọi là Lạc tướng, quan văn gọi là Lạc hầu, dân chúng gọi là Lạc dân, phải chăng tổ tiên chúng ta đã nhắn nhủ hậu duệ nên nhớ chữ “Lạc”?!. Truyền thuyết còn nói rằng: “Tổ mẫu Âu Cơ sinh ra một bọc 100 trứng, nở thành 100 con”. Đấy có phải là biểu tượng, về nguồn gốc của Lạc thư-Hà đồ?! Vì độ số của Lạc Thư là 45 và Hà Đồ là 55, biểu thị bằng những vòng tròn, có tổng độ số là 100 tròn, đúng vào truyền thuyết 100 trứng nở thành trăm con. Từ đấy, đã có nhiều học giả VN nói rằng Lạc thư-Hà đồ, đã xuất phát từ Lạc Việt, Tàu lại mạo nhận là của họ?!

Trong cuốn “Gốc Rễ Triết Việt” trang 140 của triết gia, học giả Kim Định đã ghi: “Vật tổ Tàu khởi đầu là Bạch hổ mãi về đời Hán mới nhận Rồng, chí như Việt thì đã xâm Rồng từ bao ngàn năm trước. Đó là một lối “thể đạo” thể Rồng. Vật biểu một nước nói lên tinh cốt văn hoá của nước ấy. Tàu trước nhận Bạch hổ là tỏ ra du mục một chiều. Còn vật biểu của Việt là Tiên Rồng tỏ ra văn hoá hai chiều toàn diện”.

Vật tổ Việt Nam là Tiên Rồng, vì sao vật biểu nước ta lại là Tiên Rồng và Tiên Rồng là gì?. Tiên là biểu tượng một nhân vật thần thoại, siêu phàm. Rồng là biểu tượng một linh vật có khả năng kỳ diệu. Như vậy cả hai Tiên và Rồng đều đẹp và có tính tưởng tượng; nên cái đẹp ấy phải hướng thượng mới gặp được. Tổ tiên ta đã mong mỏi hậu duệ: Sống đẹp, nhân đạo, trung dũng, lấy biểu tượng Tiên Rồng để làm gốc vậy?!.

Cảm niệm: RỒNG TIÊN
Rạng rỡ đồng bào, bởi hoá công
Ồ trăm con, nòi giống Tiên Rồng!
Nhận năm mươi, mẹ về rừng thẳm
Giao một nửa, cha đến biển Đông
Tưởng đấng Hùng Vương, cung kính dạ
In hình tổ quốc, vấn vương lòng
Êm đềm lưu loát, cùng ngôn ngữ
Người Việt thiết tha, giữ núi sông.
PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG
(? - ?)

Tương truyền đời vua Hùng thứ 6. có giặc Ân

(*) xâm lăng nước Văn Lang, thế giặc quá mạnh, các tướng Văn Lang không cầm cự nổi, vua sai sứ đi cầu hiền khắp nơi. Khi sứ giả đến làng Phù Đổng, bộ Vũ Ninh (nay tỉnh Bắc Ninh), có cậu bé ba tuổi không đứng ngồi được và không biết nói, thốt nhiên lên tiếng: “Xin phụ thân mời sứ giả vào”. Cậu bảo sứ giả về tâu với Vua: “Xin một con ngựa sắt và một roi sắt”. Sứ giả về tâu với vua, vua chấp thuận.

Khi sứ giả đem roi và ngựa đến nơi, Cậu bé vươn vai một cái, tự nhiên to lớn thành người khổng lồ, rồi hét lên một tiếng vang trời đất, tay cầm roi sắt, cỡi ngựa sắt chạy đến núi Châu Sơn (Tiên Du, Hà Bắc). Giặc Ân đang dàn trận ở đó; Ngài vung roi đánh giặc, ngựa khạc lửa đốt giặc, khi roi sắt gẫy, Ngài nhổ cụm tre cạnh đường, quật vào giặc chạy tan tác. Giặc Ân đồng quì xin đầu hàng. Phá giặc xong, người anh hùng làng Phù Đổng giục ngựa chạy đến núi Sóc Sơn, thì cả người và ngựa đều biến mất.

Vua truyền lập đền thờ tại làng Phù Đổng và phong người là “Phù Đổng Thiên Vương”. Dân chúng nhớ ơn, hàng năm đến ngày 8 tháng Tư âm lịch, làm lễ tưởng niệm anh hùng Thánh Gióng tại làng Phù Đổng. Sau này có nhiều nơi trên đất nước Việt Nam cũng đã lập đền thờ và làm lễ nhớ ơn người vào ngày này.

*- Việc giặc Ân xâm lấn nước ta, có thể là một sự kiện lịch sử. Nếu đúng như câu ghi của sử Trung Hoa “Ân Cao Tôn phạt Qủy Phương tam niên” là xác thực, thì đúng là vua Ân đã xua quân vào nước ta.

Cảm niệm: Phù Đổng Thiên Vương
Hùng Vương thứ sáu truyền xa gần
Tìm kẻ hiền tài đuổi giặc Ân
Cậu bé, thánh nhân gìn giữ nước
Sứ thần, nhiệt huyết lo lường dân
Đường roi san sát, Ân lìa xác
Vó ngựa rập rình, giặc bỏ thân
Phù Đổng Thiên Vương vua phán tặng
“Văn Lang Thánh Gióng vị ân nhân”.

Nguyễn Lộc Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.