Hôm nay,  

Vực Thẳm Ngân Sách

05/12/201200:00:00(Xem: 16392)
Liều thuốc đắng cho kinh tế Hoa Kỳ: giảm chi và tăng thuế

Hoa Kỳ mất hai năm và sáu tỷ Mỹ kim cho cuộc tổng tuyển cử 2012 để bầu lại một hệ thống lãnh đạo đã từng gây ra ách tắc chính trị từ năm 2010. Đảng Dân Chủ kiểm soát Hành pháp và Thượng viện, đảng Cộng Hoà giữ đa số tại Hạ viện và 30 chức vụ Thống đốc tiểu bang. Tình trạng chính trị lưỡng cực ấy không giải quyết được bài toán ngân sách trong hai năm qua và nay lại hai đảng lại tái đấu về chi thu trước sự phân vân của dân chúng và hoài nghi của thị trường.

Nói về bối cảnh, Hoa Kỳ đã qua ba chục năm chi tiêu hào phóng và vay mượn quá sức nên đến hồi trả nợ kể từ năm 2007. Đấy là bối cảnh chung và có nguyên nhân "lưỡng đảng" lẫn công tư.

Cả chính quyền lẫn tư nhân (các hộ gia đình và doanh nghiệp) đều đi vay trong mấy thập niên và nay phải cắt giảm chi tiêu để trả nợ. Sự chuyển động chậm rãi ấy mới giải thích những hoạn nạn của năm năm qua khi kinh tế bị suy trầm từ cuối năm 2007 rồi bị nhồi trong cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008. Các chính khách mị dân thường quy tội cho Chính quyền George W. Bush là gây ra khủng hoảng vì tăng chi bừa phứa và mở ra hai cuộc chiến – Afghanistan và Iraq – mà không tăng thuế và còn đồng loạt cắt giảm tô suất thuế qua hai đợt 2001 và 2003.

Sự thật lại không đơn giản như vậy. Sự thật là nước Mỹ đến hồi trả nợ, không khác gì hoàn cảnh của hai khối kinh tế công nghiệp hóa kia là Âu Châu và Nhật Bản. Cho nên các biện pháp kích thích kinh tế cổ điển như qua ngân sách (tăng chi và giảm thuế) và tiền tệ (hạ lãi suất và bơm tiền) đều chậm có hiệu quả.

Trong khung cảnh đó, sau khi thắng cử năm 2008, Chính quyền Obama còn tăng chi và muốn cải tạo xã hội nên nâng bội chi ngân sách lên mức kỷ lục, mỗi năm ngàn tỷ đô la trong bốn năm liền.

Khi ngân sách bị bội chi thì chính quyền phải đi vay nên khoản công trái - nợ của khu vực công quyền – đã cao bằng Tổng sản lượng quốc gia GDP, hãy tính cho tròn là 15 ngàn tỷ. Trong khi ấy, kinh tế chưa phục hồi và thất nghiệp vẫn mấp mé 8% và con số khiếm dụng thực sự (thất nghiệp toàn thời và bán thời) còn cao gấp đôi.

Bối cảnh ấy giải thích bài toán lưỡng nan hiện nay là phải kích thích sản xuất để giảm trừ thất nghiệp và đồng thời tiết giảm công chi để dần dần quân bình lại ngân sách.

Quốc hội khóa 112 được bầu lên từ năm 2010 đã có một thay đổi là đảng Cộng Hoà chiếm lại đa số tại Hạ viện nên đòi giới hạn công chi để giảm dần bội chi ngân sách trong 10 năm tới. Nếu không, Quốc hội không cho phép chính quyền đi vay thêm. Đảng Dân Chủ đồng ý trên nguyên tắc là phải giảm chi, nhưng vẫn muốn bảo vệ thành quả cải tạo xã hội đã thu được từ năm 2006 và chú trọng nhiều hơn đến việc tăng thuế. Họ nhấn mạnh tới yếu tố mang tính chất đấu tranh giai cấp, và ăn khách, là phải tăng thuế nhà giàu.

Suốt năm 2011, trận đánh về ngân sách giữa hai hướng giảm chi và tăng thuế đã không ngã ngũ và đôi bên đành đồng ý với một giải pháp tạm, do một siêu ủy ban của hai đảng đề nghị và được Tổng thống Obama ban hành ngày mùng hai Tháng Tám: cho phép nâng cao định mức đi vay, nhưng hai đảng phải thỏa thuận về một kế hoạch chấn chỉnh chi thu trong 10 năm tới. Nếu không, một số quyết định sẽ được tự động ban hành từ đầu năm 2013: mặc nhiên cắt giảm công chi và thu hồi các biện pháp giảm thuế của Chính quyền Bush (năm 2001 và 2003) và Chính quyền Obama (năm 2009). Chấm dứt việc giảm thuế có nghĩa là trở lại thuế suất cao hơn, vào trước năm 2001, tức là tăng thuế.

Trong suốt năm 2012, đôi bên không đạt thỏa thuận về việc chấn chỉnh này nên kể từ mùng hai Tháng Giêng năm 2013, biện pháp tự động sẽ được áp dụng, làm kinh tế gánh thêm nợ vì thuế và hụt mất một số mục chi tổng cộng khoảng 500 tỷ trong số bội chi ngàn tỷ. Khi sản xuất còn èo uột, ở mức 2% một năm là mừng, nếu biện pháp tăng thuế và giảm chi đó được áp dụng, Tổng sản lượng 15 ngàn tỷ sẽ hao hụt và kinh tế có thể bị suy trầm mất chừng 12-15 tháng, bốn năm quý.

Vì vậy, người ta mới nói đến "vực thẳm ngân sách" hay "tận thế thuế vụ" Taxmageddon.

Các kinh tế gia tranh luận về hiệu ứng của việc cắt giảm 500 tỷ - hay ít hơn nếu đôi bên tiến tới một số thỏa thuận là giảm bao nhiêu và tăng thuế ngần nào, cho những ai - đối với sinh hoạt kinh tế.

Sự thật là kinh tế có thể lại trôi vào suy trầm nữa, sau vụ suy trầm lần trước từ Tháng 12 năm 2007 đến Tháng Bảy năm 2009, nhưng sau đó tình hình sẽ khả quan dần. Đây là một nhận định của cơ quan độc lập có nhiệm vụ nghiên cứu ngân sách cho Quốc hội là CBO qua phúc trình mới nhất, được công bố hôm mùng tám Tháng 11.

Nhưng các chính khách đều ngại một vụ suy trầm nữa vào năm 2013 sẽ ảnh hưởng đến cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ vào năm 2014. Họ bèn đổ lỗi cho nhau, cũng với lập luận mị dân của một cuộc tranh cử ngay sau khi vừa hoàn tất tổng tuyển cử. Truyền thông đại chúng của Mỹ thì chỉ nhắc lại các lập luận đó theo thiên kiến chính trị riêng và đa số dân chúng không rõ vì sao lại có "vực thẳm ngân sách".

Cũng theo truyền thống, đảng Dân Chủ rất khéo tuyên truyền còn đảng Cộng Hoà thì chẳng biết giải thích cho rõ tình hình thực tế của một siêu cường mắc nợ. Kết quả bầu cử vừa qua có cho thấy sự khác biệt đó giữa hai đảng. Và lần này, đảng Cộng Hoà có thể lại mắc bẫy nữa khi mà tuần qua Hành pháp và Thượng viện Dân Chủ không hề thỏa hiệp và còn đề nghị tăng thuế gần 1.600 tỷ, tăng chi thêm 50 tỷ và không đặt ra định mức đi vay cho Quốc hội.

Nhưng căn bệnh chi thu vẫn còn nguyên vẹn và cần một liều thuốc đắng.

Từ ba chục năm nay, dân Mỹ đã chi tiêu và vay mượn quá sức, ngày một nhiều hơn cho đến năm 2007 mới thấy bàng hoàng. Tổng số nợ đủ loại của các hộ gia đình đã tăng vọt trong suốt 30 năm. Từ một ngàn 500 tỷ đô la vào năm 1980, khoản nợ này lên gấp đôi trong 10 năm (ba ngàn tỷ), rồi gấp sáu trong 10 năm kế tiếp (chín ngàn tỷ vào năm 2001) trước khi lên tới đỉnh là hơn 13 ngàn tỷ vào năm 2007. Đây là một nỗ lực chẳng phải là lưỡng đảng mà của toàn dân! Nhờ lãi suất hạ, tiền rẻ và vay muợn dễ dàng, kể cả vay mượn ngoại quốc, nước Mỹ hồn nhiên tiêu xài quá mức, thổi lên bong bóng đầu tư về cổ phiếu (2000) rồi địa ốc (2005) và bắt đầu phải trả nợ.

Khi cần tiết giảm chi tiêu để trả nợ thì tài hóa bớt lưu thông và kinh tế bị suy trầm, đó là hoàn cảnh của vụ Tổng suy trầm 2008-2009. Mặc dù như vậy, tính đến quý hai năm nay, khoản nợ của các hộ gia đình vẫn ở mức 12 ngàn 900 tỷ đô la, so với 15 ngàn tỷ của Tổng sản lượng.

Yếu tố quan trọng nhất, gần như thuộc về văn hoá, là kinh tế Hoa Kỳ lệ thuộc vào tiêu thụ. Nửa thế kỷ trước, tiêu thụ ở khoảng 62% của Tổng sản lượng GDP, ngày nay mức lệ thuộc đó là 71%. Trong bước ngoặt của việc tư nhân giảm chi để trả nợ sau 30 năm hồ hởi, nhà nước bèn bù vào số hao hụt bằng biện pháp tăng chi kỷ lục và mắc nợ ngập đầu. Mà vẫn không kích thích được sinh hoạt sản xuất.

Khi nâng mức công chi đến ngàn tỷ một năm thì khu vực công quyền đã chẳng giải quyết được bài toán sản xuất và thất nghiệp mà chỉ nâng mức công trái và sẽ phải trả tiền lời. Bế tắc của biện pháp kích cầu bằng ngân sách khiến Ngân hàng Trung ương đã hạ lãi suất tới số không và ba lần in bạc bơm tiền vào kinh tế - mà chưa thấy hiệu quả.

Chỉ vì cùng với nỗ lực tăng chi để kích cầu, Chính quyền Obama còn tiến hành cải tạo xã hội và mở rộng việc điều tiết và kiểm soát thị trường với rất nhiều luật lệ mới.

Tình trạng đó gây khó khăn và bất trắc cho các doanh nghiệp khiến các cơ sở kinh doanh lớn nhỏ đều có sẵn hiện kim, tiền mặt, và hơn ngàn tỷ chứ không ít, mà vẫn ngần ngại đầu tư. Nạn ách tắc chính trị trong Quốc hội hai đầu chẳng giúp gì thêm cho tâm lý e ngại đó. Tinh thần đấu tranh giai cấp và kết tội tham lam cho những ai có tiền đầu tư – bọn nhà giàu đáng ghét – càng khiến doanh gia ngồi trên núi bạc chờ thời. Ách tắc chính trị dẫn đến bế tắc kinh tế.

Giải pháp được gọi là vực thẳm ngân sách - một từ do Thống đốc Ngân hàng Trung ương nghĩ ra và nói tới - gồm có hai phần chua ngọt. Chua là biện pháp mặc nhiên cắt giảm công chi và ngọt là việc tăng thuế nhà giàu. Hãy nói đến thực đơn chua ngọt đó.

Khi bội chi ngân sách được giảm dần, chính quyền sẽ bớt đi vay và tài nguyên dành cho việc vay mượn đó qua công khố phiếu có thể được giành lại cho sản xuất. Trước mắt là giảm dần khoản tiền lời mà công khố phải trang trải một cách đều đặn khi đi vay. Đấy là quyết định hợp lý của siêu ủy ban năm 2011 khi đề ra biện pháp tự động giảm chi, gọi là "sequestration". Nó hợp lý vì thị trường trái phiếu không tiếp tục cho nhà nước vay với lãi suất rất rẻ như vậy trong khi nước Mỹ cứ mấp mé vỡ nợ. Có ngày họ sẽ đòi phân lời trái phiếu cao hơn thì công quỹ sẽ phá sản. Đây là ta chưa nói đến một vực thẳm còn sâu hơn nữa là quỹ an sinh và y tế - xin để kỳ khác.

Nhưng giảm chi là quyết định hợp lý mà không hợp tình vì nhiều người sợ rằng khoản phúc lợi xã hội của họ sẽ bị cắt. Họ dồn phiếu cho đảng Dân Chủ, một đảng có tiếng là thương dân nghèo và bảo vệ thành quả cải tạo xã hội, và họ gây áp lực để tăng thuế nhà giàu. Áp lực này là một lý luận hợp tình.

Thiếu số 1% những người có lợi tức cao nhất (lợi tức chứ không phải tài sản), đã thấy lợi tức trung bình của họ tăng hơn 90% trong các năm sau vụ Tổng suy trầm 2008-2009. So với trung bình ở khoảng 50% trước đó (từ 1993 đến 2009) thì đấy là bước nhảy vọt vĩ đại trong khi lợi tức của người dân nói chung đều giảm. Cho nên, nếu các triệu phú có chịu thêm một gánh nặng thuế khóa thì cũng hợp tình!

Nhưng chuyện ấy lại không hợp lý vì có thể gây phản tác dụng cho kinh tế.

Sản lượng kinh tế quốc gia chỉ có thể tăng nhờ dân số lao động cộng với mức gia tăng năng suất. Nhiều người làm việc hơn, với hiệu năng cao hơn thì sẽ sản xuất ra nhiều của cải hơn. Khi các chính khách nói đến chuyện tạo thêm việc làm để giải quyết nạn thất nghiệp, là nâng cao dân số lao động, thì đấy là dân số lao động trên thị trường tư doanh. Chứ lực lượng công chức là thành phần đóng góp rất ít cho sản xuất và lợi tức của họ chỉ là tiền thuế của dân.

Mà khu vực tư doanh đang chờ thời và ngần ngại đầu tư nên sản lượng kinh tế không tăng và thất nghiệp cũng chẳng giảm. Số việc làm trong khu vực tư chỉ tăng khi có ai đó muốn cung cấp loại hàng hóa và dịch vụ mà thị trường chịu mua. Muốn như vậy thì phải có đầu tư và đầu tư vào những ngành có năng suất cao hơn trước thì mới có lời.

Bọn nhà giàu triệu phú tiêu biểu là thành phần có khả năng đầu tư như vậy.

Hãy cho rằng họ có lợi tức bạc triệu trong một năm và dự trù mất 40% vì trả đủ loại thuế, còn lại 600 ngàn cho hai nhu cầu: 1) chi tiêu để duy trì mức sống sa hoa đáng ghét và 2) đầu tư hay tiết kiệm cho tương lai. Nếu thuế suất mà tăng, giả dụ thêm 5%, họ sẽ bớt các mục chi dụng phù phiếm, là tiêu xài ít hơn và đánh sụt số cầu trên thị trường, ít ra cũng khoảng 5%. Giải pháp kia là giảm mức đầu tư hoặc tiết kiệm, thí dụ như cũng 5%.

Ai sẽ được cái khoản "mất" này, giả dụ là 5%? Nhà nước. Và được như vậy để làm gì? Tăng lương công chức hay mức trợ cấp cho dân nghèo? Ngược lại, phần tiết giảm 5% vì gánh nặng thuế khóa sẽ ảnh hưởng thế nào đến sinh hoạt kinh tế? Những câu hỏi thường thức ấy cho thấy quyết định tăng thuế CŨNG có hậu quả kinh tế chứ không hẳn là vô hại.

Hậu quả đầu tiên là gây thêm tâm lý bất an trong một xã hội xưa nay vẫn quý trọng những người dám lấy rủi ro để kinh doanh và làm giầu. Ngày nay, làm giầu có thể là cái tội rất đáng gọt đầu.

Trong khi ấy, nếu nhìn vào thống kê về ngân sách từ mấy năm qua, nguồn thu về thuế lợi tức đã tăng trong thực tế dù với tô suất thấp: nghĩa không phải quyết định hạ thấp thuế suất đã làm giảm số thu ngân sách và tăng mức bội chi. Ngân sách bị thiếu hụt vì tăng chi quá nhiều và vì kinh tế sa sút đã thu hẹp căn bản tính thuế.

Do đó, nhìn xa hơn vực thẳm ngân sách năm tới, người ta thấy ra một hố sâu văn hóa của nước Mỹ về chuyện làm giầu. Đó là công hay tội? Còn gánh nợ lưu cữu từ ba chục năm nay, ai sẽ trả? Thế hệ con cháu sau này? Chúng có biết không?

Tương lai đó nó vượt xa tầm nhìn của các chính khách vì hai năm tới đây họ sẽ lại phải xin phiếu của dân. Lấy tiền của bọn nhà giàu để mua phiếu của dân nghèo là một giải pháp chính trị hấp dẫn. Nhưng không là giải pháp kinh tế đã làm nên sức mạnh của Hoa Kỳ.

Các nước trên thế giới hẳn là rất vui về quyết định đó của cử tri Mỹ: Hoa Kỳ sẽ sớm chấm dứt kỷ nguyên siêu cường độc bá.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nelson Mandela (1918-2013), quán quân Giải Nobel Hòa Bình năm 1993, nhà hoạt động chống chế độ phân biệt chủng tộc bị tù 27 năm, và là vị tổng thống người da đen đầu tiên được bầu trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của nước Nam Phi vào năm 1994, đã từng nói rằng, “Giáo dục là vũ khí có sức mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” Hơn ai hết, Nelson Mandela là người không những hiểu rõ giá trị thực sự của nền giáo dục mà còn áp dụng kiến thức đó trong việc làm thay đổi đất nước và dân tộc Nam Phi của ông. Ông đã dẫn dắt Nam Phi từ một quốc gia ngập chìm trong bóng tối của thù hận, phân hóa và lạc hậu để vươn mình lên trong ánh sáng của đoàn kết, hòa bình và phát triển.
Hoa Kỳ đã tấn công Iran. Chỉ vài ngày sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump gợi ý rằng có thể trì hoãn bất kỳ hành động quân sự nào của Mỹ trong nhiều tuần, ông tuyên bố vào ngày 21/6 rằng máy bay Mỹ đã tấn công ba địa điểm hạt nhân của Iran, bao gồm cả cơ sở bị chôn sâu ở Fordow. Các quan chức Iran xác nhận rằng các cuộc không kích đã diễn ra. Mặc dù ông Trump khẳng định rằng các địa điểm này đã bị "xóa sổ", nhưng vẫn chưa rõ các cuộc tấn công đã gây ra thiệt hại gì.
Jena, Louisiana – một thị trấn 4.000 dân lọt thỏm giữa rừng thông – nơi bảng hiệu đầu làng ca ngợi đội bóng nữ vô địch của bang, nhưng cách đó chỉ ba dặm, sau hàng rào kẽm gai và lời Kinh Thánh treo lủng lẳng, là Trại Giam ICE đồ sộ - do GEO Group điều hành. Nơi đây hiện giam giữ hơn 1000 người – phần lớn chưa từng bị kết tội hình sự, nhiều người chỉ là dân đang xin tị nạn hợp pháp, số còn lại chưa kịp hiểu vì sao mình bị bắt...
Tại sao Trump lại vội vàng ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và chính sách mới như vậy?AI: Có hai lý do.Đầu tiên, tổng thống vội vàng vì nếu có bất kỳ điều gì sai trái xảy ra vào đầu nhiệm kỳ, ông có thể đổ lỗi cho chính quyền trước và nhà nước (những người làm việc cho ông). Nếu để lâu, những điều sai trái sẽ là trách nhiệm của ông, và Trump không thích chịu trách nhiệm.Thứ hai, ông biết trong hai năm nữa, đảng Cộng hòa sẽ mất quyền kiểm soát Hạ viện trong cuộc bầu cử quốc hội và ông sẽ trở thành què quặt. Ông cần phải hoàn thành mọi việc ngay bây giờ. Ông muốn tập trung vào các doanh nghiệp của mình trong hai năm cuối nhiệm kỳ tổng thống,
Bao dung – một từ nghe thật thanh thoát. Âm tiết của nó cũng thật bình dị, thốt ra từ thanh quản nhẹ nhàng không cần uốn nắn, như cỏ mọc từ đất, như mưa từ trời. Vậy mà ngày nay, trong một xã hội đứng đầu thế giới về tự do, về quyền con người, hai từ “bao dung” bỗng dưng khó tìm. Chính trong tháng Sáu này, tháng gọi là Pride Month, những câu chuyện thương tâm về cộng đồng LGBTQ+ bị chìm trong bóng tối. Có lẽ trong sáu tháng qua, nước Mỹ có quá nhiều những phát ngôn, biến cố, thay đổi mà đối với truyền thông, đó là điều cần phải nói, và nói mỗi ngày. Hoặc cũng có lẽ, trong một chính quyền đang nỗ lực bác bỏ DEI, đóng chặt cửa với di dân, thì truyền thông cũng không dám đào sâu về những gì thuộc về cộng đồng yếu thế. Cho dù, đó là một án mạng lấy đi cuộc sống một con người, hoặc chấm dứt những nguyên tắc vốn đã được nhìn nhận hàng thập kỷ.
“Nơi nào người ta bắt đầu đốt sách, nơi đó người ta rồi cũng sẽ thiêu người.”— Heinrich Heine. Câu nói nổi tiếng từ thế kỷ XIX của thi sĩ Heinrich Heine, tưởng chỉ là tiếng vọng u ám của bóng ma lịch sử nhưng hôm nay, giữa thế kỷ XXI, lời cảnh báo ấy lại trở nên rúng động – ngay trên đất nước từng được xem là ngọn hải đăng của tự do học thuật. Oái oăm thay, những dấu hiệu đầu tiên của bóng tối không phát xuất từ một chế độ độc tài phương Đông, mà từ chính nước Mỹ – xứ sở từng được xem là ngọn hải đăng của giáo dục tự do.
Donald Trump không đội vương miện, nhưng ông đã luyện được cách bắt cả một đảng chính trị quỳ gối. Và cũng như các ông vua cổ đại, ông không cần luật – ông chính là luật. Nếu Toà Tối cao chống đối, ông sẽ gọi đó là “phản quốc.” Nếu truyền thông phản biện, ông gọi đó là “tin giả.” Nếu có cuộc bầu cử mà ông thua, ông sẽ bảo đó là “gian lận.” Và nếu có ai dám nói điều gì khác, ông sẽ gửi quân đội tới – như ông đã làm ở Los Angeles, để dạy cho đám biểu tình “hỗn xược” ấy một bài học về dân chủ... bằng đạn cao su và lựu đạn cay.
Ryanne Mena là một nhà báo đưa tin về tội phạm và an toàn công cộng cho Southern California News Group. Thứ Sáu, 6/6, ngày đầu tiên diễn ra cuộc biểu tình phản đối chính sách nhập cư của chính quyền Trump, chống lại các cuộc bố ráp của Cảnh Sát Di Trú (ICE), Mena đã có mặt ngay trên đường phố Los Angeles, bên ngoài Trung tâm giam giữ Metropolitan,L.A. Tại đây, cô bị trúng đạn hơi cay ở đùi bên trái Ngày kế tiếp, nữ phóng viên này bị trúng đạn cao su của các đặc vụ liên bang bắn vào đầu, bên phải, cách tai của cô chỉ khoảng 1 inch. Những tấm ảnh Mena và các đồng nghiệp khác bị thương lan tỏa khắp Instagram, Twitter.
Giữa lúc Tòa Bạch Ốc đang tìm mọi cách cứu vớt mối quan hệ Trump-Musk thì các cựu quan chức an ninh y tế cho biết chính quyền Trump hủy bỏ $766 triệu trong các hợp đồng nghiên cứu phát triển vaccine mRNA để chống lại các loại đại dịch cúm. Với họ, đây là đòn giáng mới nhất vào quốc phòng quốc gia. Họ cảnh báo rằng Hoa Kỳ có thể phải nhờ đến lòng trắc ẩn của các quốc gia khác trong đại dịch tiếp theo. ABC News dẫn lời Beth Cameron, cố vấn cao cấp của Trung tâm Đại dịch thuộc Brown University Pandemic Center, và là cựu giám đốc Hội đồng an ninh quốc gia Tòa Bạch Ốc, cho biết: “Các hành động của chính quyền đang làm suy yếu khả năng phòng ngừa của chúng ta đối với các mối đe dọa sinh học. Việc hủy bỏ khoản đầu tư này là một tín hiệu cho thấy chúng ta đang thay đổi lập trường về công tác chuẩn bị ứng phó với đại dịch. Và điều đó không tốt cho người dân Mỹ.”
Ăn mặc đẹp là nói về thời trang. Lịch sử “thời trang cao cấp” thuộc về truyền thống của Pháp: Haute couture từ thế kỷ 17. Đến thế kỷ 19, ngành thời trang cao cấp đã phát triển thành một phương tiện kích thích tăng trưởng trong nền kinh tế Pháp. Trong thời gian này, các nhà tạo mốt như Dior, Chanel và Balenciaga đã được thành lập. Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, ngành thời trang cao cấp ở Pháp đã mất đi phần lớn sự huyền bí của mình và phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các thị trường quốc tế khác, đặc biệt là ở Ý và Hoa Kỳ. Sự thành công của bối cảnh thời trang quốc tế và tiềm năng lợi nhuận đã thu hút sự chú ý của các tập đoàn hàng xa xỉ, được tiên phong bởi ông trùm kinh doanh người Pháp và người sáng lập LVMH Bernard Arnault vào năm 1987. Ngày nay, các tập đoàn này vẫn tiếp tục duy trì hoạt động lịch sử của các nhà thời trang xa xỉ thông qua việc bổ nhiệm các giám đốc sáng tạo, những người diễn giải và chỉ đạo triết lý thiết kế của thương hiệu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.