* Biệt động quân VNCH tăng viện mặt trận Khe Sanh:
Theo sự chỉ định của bộ chỉ huy liên đoàn, sáng ngày 27/1/1968, tiểu đoàn 37 Biệt động quân (BĐQ) do đại úy Hoàng Phổ chỉ huy được không vận đến Khe Sanh. Ngay khi đổ quân xuống trận địa, tất cả tiểu đoàn tiến nhanh về phía Đông phi đạo. Tại đây, tiểu đoàn 37 BĐQ đã khai triển đội hình, phối trí các đại đội lập tuyến phòng thủ tiền đồn để bảo vệ sân bay, ngăn chận không cho CQ lọt vào hàng rào kẻm gai. (Chi tiết về trận chiến của tiểu đoàn 37 Biệt động quân tại Khe Sanh đã được trình bày trong loạt bài viết về các đơn vị Biệt động quân VNCH trên chiến trường giới tuyến).
Bước vào tháng 2/1968, trận chiến tại Khe Sanh trở nên khốc liệt hơn. Vào đầu tháng 2/1968 (mồng ba Tết), Cộng quân đã tăng cường thêm 1 sư đoàn và 3 trung đoàn cơ động, 1 trung đoàn pháo phòng không. Theo ước tính của các cơ quan tình báo liên quân Việt-Mỹ, quân số tham chiến của Cộng quân tại chiến trường Khe Sanh vào lúc đó đã lên đến khoảng 50 ngàn quân, trong đó 4/5 là lực lượng chính quy CSBV.
* Trận chiến tại Làng Vei:
Từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 2/1968, Cộng quân liên tục gây áp lực bằng các đợt pháo kích vào các trọng điểm trong căn cứ trong đó phi đạo là một mục tiêu chính. Thông thường, các căn hầm chỉ huy của các đơn vị quân trú phòng đều cắm những trụ dây trời để liên lạc truyền tin, do đó Cộng quân thường nhắm vào đây như một điểm chuẩn để pháo kích. Tương kế tựu kế, đại tá Lowds-trung đoàn trưởng trung đoàn 26 TQLC kiêm chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh đã cho cắm tên từng hầm trú ẩn một cột dây trời cao khiến cho Cộng quân lúng túng khi pháo vào căn cứ.
Ngày 5 tháng 2/1968, 2 tiểu đoàn Cộng quân mở đợt tấn công vào đồi 861 A, nhưng đã bị quân trú phòng và hỏa pháo, không pháo gây tổn thất nặng, Cộng quân phải rút lui.
Nửa đêm ngày 6 rạng ngày 7/2/1968, Cộng quân sử dụng một biệt đội thiết vận xa PT 76 của Nga chế tạo có bộ binh tùng thiết và 1 trung đoàn chủ lực tấn công vào trại Lực lượng Đặc biệt tại Làng Vei, gần căn cứ Khe Sanh. Trại này do đại úy Frank C. Willoughby chỉ huy gồm 1 phân đội Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ 24 người và khoảng 200 Dân sự Chiến đấu (Biệt kích quân biên phòng) phần lớn là dân thiểu số miền núi tỉnh Quảng Trị. Ngày 7/2/1968, trại này bị tràn ngập bởi lực lượng Cộng quân, một số đông binh sĩ và cố vấn do đại úy Frank C. chỉ huy phải rút ra ngoài.
Khi tấn công vào trại này, một số chiến xa của Cộng quân bị bắn cháy, số còn lại đã tràn vào trại cùng với bộ binh của Cộng quân. Dân cư gần Làng Vei đã ùa chạy về phía căn cứ Khe Sanh, trong số đó có cả những người lính Biệt kích quân biên phòng của trại Lực lượng Đặc biệt cùng rút về. Sự việc trại Làng Vei thất thủ làm cho căn cứ phải nhận thêm nhân số khiến số người trong căn cứ đã đông lại càng đông thêm, điều này đã gây khó khăn cho việc phòng thủ chống pháo kích và an ninh trong căn cứ.
Để đề phòng Cộng quân trà trộn, theo lệnh của bộ chỉ huy Căn cứ, lính Dân sự Chiến đấu phải tập hợp ngoài căn cứ và bị thu hồi võ khí, sau khi toán Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ có thể kiểm soát được quân số thì họ mới được vào trại. Dù vậy cũng có một số Cộng quân trà trộn vào được với lính Dân sự chiến đấu của trại Lực lượng Đặc biệt, nhưng số Cộng quân đã bị phát hiện ngay sau đó và bị bắt giữ.
Trong đêm trại Làng Vei bị Cộng quân chiếm cứ, sĩ quan trung tâm trưởng Trung tâm hành quân tác chiến của bộ tư lịnh Quân đội Mỹ tại VN đã hai lần đánh thức tướng Westmoreland để báo cáo (vị tướng này đã đem ghế bố vào ngay trung tâm hành quân ngủ trong suốt thời gian xảy ra trận chiến Khe Sanh).
Khi Cộng quân tấn công vào trại Làng Vei, đại tá Jonathan Ladd, chỉ huy Lực lượng 5 Đặc biệt Hoa Kỳ đã yêu cầu quân tiếp viện đến giải cứu trại này. Theo kế hoạch đã được định trước, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đóng tại Khe Sanh sẽ phái đơn vị đi giải cứu Làng Vei nếu trại này bị khốn đốn nhưng đã hai lần Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tại đây đã từ chối không chịu đi cứu viện. Các cấp chỉ huy của lực lượng trú phòng Khe Sanh nói rằng nếu đi cứu viện bằng đường bộ thì sẽ bị phục kích, còn nếu dùng trực thăng để giải vây thì sợ bắn trúng nhằm quân bạn.
Trong ngày 7/2/1968. đại tướng Westmoreland bay ra Đà Nẵng và mở ngay cuộc họp với các chỉ huy Lục quân và Thủy quân lục chiến tại Vùng 1 chiến thuật. Ông đã chỉ thị cho tướng Cushman, tư lịnh Lực lượng 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ điều động ngay trực thăng chở một đội quân đang đồn trú tại Khe Sanh đi giải cứu trước khi trại này bị Cộng quân tràn ngập. Đội giải cứu đã cứu được 14 quân nhân Mỹ trong trại Làng Vei, 10 người còn lại đã bị tử thương.
Ngày 8/2/1968, có thêm khoảng 3 ngàn dân làng gần khu Làng Vei trong đó có cả một số dân thuộc bộ lạc Cả của Lào, xin vào tị nạn tại Khe Sanh. Đại tá Lownds, chỉ huy căn cứ Khe Sanh phải tổ chức hành quân giải tỏa quốc lộ 9 để đưa họ về tạm cư tại quận lỵ Cam Lộ, cách Khe Sanh khoảng 40 km đường chim bay.
* Trận giao tranh ngày 9/2/1968 và các cuộc pháo kích vào phi đạo.
Đêm 9 tháng 2/1968, tiểu đoàn 1/9 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ bị tấn công bất ngờ tại tiền đồn hầm đá ngoài căn cứ. Quân trú phòng phải rút về phòng tuyến trong và rạng sáng ngày 10/2/1968, tiểu đoàn 1/9 tái chiếm lại cứ điểm. Trong cuộc giao tranh này phía Cộng quân bỏ lại 200 xác chết trên trận địa, phía TQLC Hoa Kỳ có 21 quân nhân tử trận.
Việc tiếp tế cho quân trú phòng đã gặp khó khăn. Các vận tải cơ C-130 đáp xuống phi đạo trở thành mục tiêu của các họng pháo Cộng quân cứ nhắm vào sân bay. Ngày 11 tháng 2/1968, Cộng quân gia tăng pháo kích vào phi đạo, 2 vận tải cơ C-130 bị trúng đạn pháo, 1 bốc cháy trên phi đạo, 6 người trong phi hành đoàn chết. Chiếc thứ 2 phải rời ngay phi đạo với hàng trăm lỗ trên sàn tàu bị đạn. Cơ khí trưởng của vận tải cơ này đã phải dùng đến tay chân thay thế cho máy móc để phi cơ có thể bay về Đà Nẵng an toàn.
Trước tình trạng trên, bộ chỉ huy Không quân Hoa Kỳ tại VN nhận xét rằng phi cơ C-130 rất hiếm và quá cần cho các trường hợp khẩn cấp, nhưng không nên để mất quá nhiều tại Khe Sanh, chỉ nên sử dụng loại phi cơ này để tiếp viện cho Khe Sanh trong những trường hợp nghiêm trọng. Sáu tuần lễ sau đó, nhiệm vụ vận chuyển quân dụng và quân lương tiếp tế được giao cho loại vận tải cơ C-123 nhỏ hơn, loại phi cơ này có thể cất cánh nhanh và có thể đáp xuống các phi đạo ngắn.
* Các cuộc tấn kích của CQ từ 12 đến cuối tháng 1/1968:
Từ ngày 12 đến ngày 20 tháng 2/1968, CQ vẫn bám chặt các vị trí ngoài hàng rào căn cứ và các ổ pháo mặc cho không pháo từ các pháo đài B-52 đã liên tục dội xuống như dòng thác Niagara. Ngoài phi đạo thường bị pháo kích, các kho đạn và kho nhiên liệu trong căn cứ là những mục tiêu có thể bị phát nổ và phát hỏa khi bị trúng pháo của địch quân.
Ngày 21/2/1968, Cộng quân tấn công vào 1 vị trí tiền đồn của tiểu đoàn 37 BĐQ nhưng đã bị tổn thất nặng, 35 Cộng quân bị bỏ xác tại vòng rào.
Ngày 23/2/1968, CQ tổng pháo kích với 1,307 quả đạn rơi vào căn cứ. Một quả đạn rơi trúng ngay kho đạn làm phát nổ 1500 trái đạn pháo binh.
Ngày 25/2/1968: đại đội B của tiểu đoàn 1 trung đoàn 26 TQLC Hoa Kỳ bị phục kích và tổn thất nặng khi tuần tiểu ở phía Nam căn cứ. Sau sự tổn thất này, mọi cuộc tuần tiểu ngoài căn cứ đều bị đình chỉ.
Ngày 29/2/1968, CQ mở nhiều đợt tấn công vào tuyến phòng thủ của tiểu đoàn 37 BĐQ nhằm chiếm phía đông phi đạo nhưng đã bị tổn thất nặng. Hai ngày cuối tháng 2, trận chiến tiếp tục diễn ở mức độ khốc liệt, các thông tin tình báo ghi nhận rằng CQ sẽ mở những đợt tấn công cường tập trong tháng 3/1968. (Theo tài liệu Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, hồi ký đại tướng Westmoreland, bản tin chiến sự hàng ngày của Tổng cục Chiến tranh Chính trị QL/VNCH phổ biến cho báo chí; một số bài viết trong KBC...)
Kỳ sau: Các trận lớn trong tháng 3 tại mặt trận Khe Sanh.