Hôm nay,  

HỒI THỨ SÁU MƯƠI

29/09/201100:00:00(Xem: 4972)

HỒI THỨ SÁU MƯƠI

Phục hồi đất tổ.

Qua lời nói của Hoàng Hoa, rồi Hồng Hoa tằng hắng ; Dã Tượng được Địa Lô giảng cho biết Hoàng Hoa cũng là gian tế Mông cổ qua tên An Hat San. Nhưng chàng không hiểu nổi tại sao Hoàng Hoa lại báo cho mình biết là trong Tô lịch thất tiên có người làm gian tế "

Dã Tượng hỏi Địa Lô:

– Bây giờ chúng ta phải đề phòng Tô lịch thất tiên. Cứ như quyết định của An Hat San, y ra lệnh cho Thanh Hoa đánh thuốc độc giết toàn thể nhà đò, với anh emmình. Chúng chỉ chừa lại Thúy Hồng. Trên đường đi làm sao có thể đề phòng được " Giết quách chúng đi cho rồi.

Địa Lô mỉm cười :

– Chúng ta có thể căn cứ vào luật : tướng ngoài mặt trận không nhất thiết phải tuân lệnh đức vua, rồi giết bẩy con quỷ cái thì dễ dàng quá. Giết thì phải giết quang minh chính đại, nghĩa là tuyên bố tội trạng rồi hành hình. Nhưng này anh ! Anh là con nuôi Hưng Đạo vương, công lao anh tuy không nhỏ. Liệu anh có khả năng chống lại 7 ông chồng của bẩy con quỷ không " Nghe tin anh xử tử chúng, bẩy ông chồng sẽ nhảy dựng lên. Liệu anh có chống lại bẩy miệng lưỡi các ông không "

– Anh vì sự nghiệp của vua Hùng vua Trưng mà hành động. Cây ngay không sợ chết đứng.

– Thế mà có rất nhiều cây ngay chết đứng trong lịch sử rồi đó.

– Kể cho anh nghe thử.

– Tăng Tử là người hiền, Tăng mẫu là người hiểu con mình. Một ngày kia, có kẻ sát nhân trùng tên với Tăng Tử. Tăng mẫu đang dệt vải. Có người nói: Tăng Sâm giết người. Tăng mẫu thản nhiên: con tôi là người hiền đâu có làm việc đó. Một lát có người thứ nhì nói: Tăng Sâm giết người. Tăng mẫu vẫn thản nhiên: con tôi là người hiền đâu có làm việc đó. Lát sau, người thứ ba nói: Tăng Sâm giết người. Tăng mẫu kinh hoảng ném thoi, bỏ khung cửi mà chạy. Hiền không ai bằng Tăng Tử. Hiểu con không ai bằng Tăng mẫu. Nay đức độ hiền của anh không bằng Tăng Tử. Triều đình khó có ai hiểu anh bằng Tăng mẫu hiểu con"

– Vậy làm sao bây giờ"

– Cứ lờ đi, đề phòng cẩn thận. Trong năm gói thuốc của Thanh Hoa ắt có thuốc mê, hoặc thuốc giết người. Em đã ngửi 5 gói thuốc của Thanh Hoa. Bây giờ em lên bờ mua 5 vị thuốc có mùi hơi giống với 5 vị thuốc đó, rồi đánh tráo đi. Khi mụ ra tay, thì không kết quả.

Cứ mỗi lần Dã Tượng nghĩ đến bọn họ Trịnh là chàng lợm giọng. Chàng nói với Địa Lô:

– Anh định dùng mưu nhờ tay Tống giết ba đứa này đi, cắt đứt đường dây liên lạc của tên Hat San.

Địa Lô phì cười:

– Em biết mưu anh rồi. Em sẽ thực hành như ý anh muốn.

– Em thử nói xem có đúng ý anh không"

– Anh sai chim ưng báo cho Kim sơn tam kiệt biết rằng bọn Trịnh đang dùng ngựa của họ đi lại song song với chúng ta trên bờ. Tam kiệt sẽ đuổi theo bắt chúng, chặt đầu chúng dùm ta.

Dã Tượng cười:

– Đúng vậy.

– Nếu ba tên họ Trịnh bị giết, ta mất đi nhân chứng chính về 7 con quỷ.

– Ừ nhỉ. Phải để chúng sống. Ta cần bắt chúng đem về nước. Làm sao bây giờ"

– Lượng tiểu phi quân tử. Vô độc bất trượng phu. Ta giúp Kim sơn tìm được ngựa để trả nghĩa Hoa sơn ngũ hiệp, Kim sơn tam kiệt đã giúp mình. Tuy nhiên ta nên nhân dịp này bưng thêm mâm cỗ biếu Kim sơn để lưu lại cảm tình mai hậu.

– Nghĩa là"

– Khi ta viết thư cho Kim sơn tam kiệt, ta kể rõ bố tên Trịnh Ngọc là gã Hat San. Hat San buôn bán khắp Đại Việt, Chiêm Thành, Chân lạp, Hoa Nam. Y giầu có súc tích. Tam kiệt bắt ba tên họ Trịnh, rồi đòi Hat San chuộc một số tiền lớn bằng không thì giết chết. Thế là ta báo ơn Kim sơn tam kiệt, mà làm cho bọn Hat San tốn bạc. Khi Tam kiệt tha chúng ra. Bấy giờ ta mới bắt chúng đem về nước.

Suốt dọc đường không có gì xẩy ra. Con thuyền lưỡi liềm vẫn theo sát thuyền của Dã Tượng.

Trưa hôm ấy, thuyền đến Giang an. Giang an là tuyến lửa đầu giũa Tống với Mông cổ, nên việc tuần phòng của Tống rất cẩn mật. Khi thuyền vừa cập bến thì con thuyền lưỡi liềm cũng cập cách đó chừng năm chục trượng (100 m). Người Hán luyện Thiền công lên bờ với hai người khác, thủng thỉnh dạo phố, thỉnh thoảng lại vào một cửa hàng hỏi han gì đó.

Dã Tượng dặn Thất tiên:

– Đây là trấn lớn, tiếp giáp với vùng đóng quân của Mông cổ. Thủy, bộ quân Tống rất đông. Tuy nhiên mình là sứ đoàn, lại có thẻ bài của Vương Kiên thì không sợ bị làm khó dễ. Các chị muốn mua bán gì hãy lên bờ tìm mua. Vùng này họ nói tiếng Thục. Địa Lô, Thúy Hồng đều biết nói tiếng Thục. Vậy tôi để cả hai đi làm thông dịch cho các chị.

Hoàng Hoa hỏi:

– Thế tướng quân làm gì"

– Tôi ở lại thuyền ngủ cho hồi sức.

Chín người ra đi một lát thì có một kỵ mã Tống mặc chiến bào cấp Đô thống dừng chân trước ván xuống thuyền. Người này nói với thuyền phu:

– Tôi muốn gặp vị khách thuê thuyền của ông!

– Các khách lên bờ hết rồi. Chỉ còn một người thôi. Để tôi mời ông đó ra đây.

Vừa trông thấy kỵ mã, Dã Tượng kêu lên:

– Nhị kiệt. Đệ đây. Mời Nhị kiệt xuống thuyền. Có nhiều truyện phải nói.

Vào khoang thuyền, Nhị Kiệt hỏi:

– Chim ưng mang thư của Quốc Kinh tới, chúng tôi vội đến đây bắt ba tên họ Trịnh. Nhưng tìm không thấy chúng.

– Dễ mà, tôi sai chim ưng dẫn đường cho Nhị Kiệt.

Chàng chỉ vào con thuyền lưỡi liềm:

– Nhị Kiệt có biết con thuyền kia không"

– Biết! Chủ nhân của thuyền ấy tên Mộ Hợp Mễ An Hat San. Y là một thương gia giầu có, đi lại trên sông Kim sa giang, Trường giang, cho tới biển. Y giao thiệp rất rộng, đóng thuế đầy đủ.

Dã Tượng mỉm cười:

– Phen này Tam kiệt phát tài lớn. Hat San có cơ sở buôn bán vĩ đại ở Đại Việt, Kinh châu, Tứ xuyên, Đại lý, Lưỡng Quảng. Cái tên Trịnh Ngọc là con y. Trịnh Ngọc làm Tế tác cho Mông cổ. Bây giờ Tam kiệt bắt ba tên họ Trịnh về tội ăn cắp ngựa chiến, sai điệu ra bờ sông tuyên án tử hình. Cần phải lờ việc bọn chúng làm Tế tác cho Mông cổ. Dĩ nhiên tên Hat San không thể nhìn con bị giết, y phải xin chuộc. Tam kiệt đòi mỗi mạng một nghìn lượng vàng. Nhận vàng, Tam kiệt thả chúng ra, tôi sẽ tìm cách bắt chúng lại đem về Đại Việt xử tội.

– Nhưng tôi không biết chúng ở đâu"

– Chim ưng của tôi theo dõi chúng từ mười ngày nay. Bây giờ tôi sai chim ưng dẫn đường. Nào chúng ta cùng đi.

Nhị Kiệt lên bờ đi tìm Nhất, Tam Kiệt. Lát sau cả ba đều tập trung trên bờ sông. Nhất Kiệt, Tam Kiệt cùng nhỏ người. Hai anh em cỡi chung một ngựa. Dã Tượng cỡi một ngựa. Chim ưng bay trên đầu dẫn đường. Đi hơn một khắc ra khỏi thị trấn, rồi hơn khắc sau tới một làng nhỏ. Vừa vào trong làng đã thấy ba chiến mã của Kim sơn tam kiệt cột trong sân một ngôi nhà khá khang trang. Cả bốn nhảy xuống ngựa. Nhất Kiệt hú lên một tiếng gọi ngựa của mình. Ba con ngựa nghe tiếng chủ cùng hí lên tỏ vẻ vui mừng.

Bốn người lăm lăm vũ khí tìm bắt bọn họ Trịnh. Khi vào trong sân ngôi nhà, bất giác cả bốn cùng ngừng lại mở to mắt ra nhìn: bọn họ Trịnh bị trói nằm dưới đất. Lối trói rất đặc biệt: hai vợ chồng tên Ngọc quay lưng vào nhau. Tay trái của vợ bị trói vào tay phải của chồng. Còn thằng con tên Long thì tay chân bị trói như trói lợn.

Có tiếng nói vọng ra:

– Dã Tượng! Sao anh chậm quá vậy"

Một người cao lêu khêu bước ra. Thì ra người đó là Cao Mang, đứng thứ ba trong Thiên trường ngũ ưng. Dã Tượng giới thiệu Kim sơn tam kiệt với Cao Mang. Cao Mang nói tiếng Hoa rất chuẩn. Chàng cung tay:

– Rất hân hạnh được biết ba vị anh hùng đánh Mông cổ.

Thấy Cao Mang cao lênh khênh, Nhị Kiệt chạy lại bên cạnh đứng sóng vai:

– Cao huynh cao hơn tôi một cái đầu. Hơn năm trước võ lâm Trung nguyên thường không ngớt ca tụng tài thiện xạ của Cao huynh bách phát, bách trúng. Xạ lực xa đến hơn trăm trượng (200 m ngày nay).

Nhất Kiệt chỉ cây cung Cao Mang đeo trên lưng:

– Cao huynh cho chúng tôi xem cây cung đặc biệt của Cao Huynh một chút được không"

Cao Mang tháo cung trao cho Nhất Kiệt: cánh cung không phải bằng tre, bằng gỗ mà bằng thép đúc, dây bằng gân bò. Cung có hai bậc, một bậc bắn xa, một bậc bắn gần. Nhất Kiệt cầm mấy mũi tên xem. Có ba loại tên, một loại bằng gỗ, mũi nhọn bịt thép. Một loại bằng thép, mũi bằng, sắc, giống như con dao nhỏ. Một loại nữa đầu cuốn vải.

Nhất Kiệt hỏi:

– Công dụng của ba loại tên này khác nhau thế nào"

– Loại mũi thép dùng để bắn người, ngựa. Loại như con dao dùng để phá thuẫn. Loại cuốn vải dùng để tẩm dầu bắn lửa.

Dã Tượng ghét mặt bọn họ Trịnh, chàng nói với Cao Mang:

– Bây giờ anh treo hai vợ chồng tên ghẻ lở này lên cây cách xa trăm trượng, rồi em biểu diễn cho Tam kiệt xem. Mũi thứ nhất em bắn tên bịt thép xuyên qua mông y. Mũi thứ nhì em bắn tên thép, cắt đứt chân tay y. Mũi thứ ba em bắn tên tẩm dầu đốt cháy quần áo y.

Nói là làm. Dã Tượng treo vợ chồng tên Trịnh Ngọc lên một cành cây. Mụ Mỹ Liên kinh hoảng:

– Trăm lạy tướng quân, nghìn lạy tướng quân! Xin đừng thử tiểu nhân. Tướng quân mà thử thì nhất định tiểu nhân sẽ chết ngay.

Dã Tượng càng dọa già:

– Chỉ bắn thử thôi, chỉ bắn thủng mông, đứt chân, tay thì chết thế nào được"

– Nhất định chết. Xin tướng quân đừng thử.

Mụ năn nỉ mặc mụ năn nỉ, Cao Mang lấy cung, dương lên, mũi tên xé gió, vèo một cái xén mất búi tóc trên đầu mụ. Mụ rú lên kinh khủng. Lại mũi tên bằng phẳng bắn ra, chát một tiếng, cành cây to bằng bắp tay bị tiện đứt rơi xuống đất. Kim sơn tam kiệt biết Cao Mang chỉ muốn đùa cợt, dọa vợ chồng tên Ngọc. Nhất Kiệt can thiệp:

– Xin Cao huynh ngừng tay, bằng không vợ chồng tên này sợ quá vỡ mật ra mà chết mất.

Bây giờ Dã Tượng mới hỏi Cao Mang:

– Tại sao em lại ở đây"

– Thì có gì lạ đâu. Hưng Đạo vương sai Đại đởm thượng tướng quân đem Đại đởm thập tam kiệt đi tiếp viện cho anh. Em cũng xin đi theo. Trước khi lên đường Khu mật viện giảng cho bọn em biết hết tình hình. Cả đoàn đi đường tắt tới đây. Vừa gặp bọn này, Thập tam kiệt nhận ra chúng là bọn Việt gian theo Mông cổ. Tướng quân Nguyễn Thiên Sanh ra lệnh bắt trói chúng. Thấy chim ưng bay lượn trên đầu thì em biết anh sắp tới. Em ngồi chờ anh.

Chàng cho tay lên miệng hú một tiếng dài. Lập tức có có tiếng hú đáp lại. Mười ba kỵ mã phi ngựa tới. Dã Tượng cung tay chào Nguyễn Thiên Sanh:

– Đệ xin kính chào trưởng bối.

– Miễn lễ.

Theo quân luật Đông A, khi tập hợp nhiều tướng sĩ thì người nào có hàm cao nhất sẽ là người chỉ huy. Hàm của Dã Tượng là Tả thiên ngưu vệ thượng tướng quân, tước chưa có. Hàm của Cao Mang là Đô thống còn nhỏ hơn nữa. Trong khi hàm của Nguyễn Thiên Sanh là Đại đởm thượng tướng quân, tước An xuyên bá. Cao hơn Dã Tượng đến bốn bậc. Nghiễm nhiên Thiên Sanh là người chỉ huy.

Thiên Sanh ra lệnh:

– Chúng ta trao bọn họ Trịnh cho ba vị Đô thống Kim sơn. Nhiệm vụ của anh là trợ giúp em đã xong. Bọn anh về nghe.

Thiên Sanh nói sẽ vào tai Dã Tượng:

– Biết rằng trong đoàn của em có gian tế. Nên Khu mật viện ra lệnh cho em rằng khi đến Giang an thì lên bộ tiến về Chiêu thông. Đó là lệnh giả nhằm đánh lừa bọn Mông cổ. Bây giờ em không lên bộ nữa, đem thuyền vào Hoành giang, xuôi về Chiêu thông. Anh đi trước tuần phòng, sẵn sàng tiếp cứu em.

Nhất Kiệt tấm tắc:

– Chúng tôi ở Trung nguyên mà từng nghe danh Đại đởm thập tam kiệt như sấm động bên tai. Phải chi bên Tống cũng có một đội dũng sĩ như vậy thì hay biết bao!

Thiên Sanh nắm tay Nhất Kiệt:

– Có rồi. Từ sau trận Mông cổ xâm Đại Việt thì Hưng Đạo vương đã ban lệnh chỉ truyền chúng tôi huấn luyện cho mỗi Quân một đội Đại đởm. Đó là binh Việt. Sau khi Dã Tượng sang hội kiến với Vương Kiên, vương tổ chức các Hoa kiều yêu nước thành một Hiệu binh. Hiệu binh này được trang bị, huấn luyện như quân Đại Việt. Mỗi Hiệu có bốn Quân. Như vậy tương lai có đến bốn đội Đại đởm trở về quê hương chống Thát đát. Không lâu nữa, Hiệu binh này sẽ về Trung nguyên cùng với hơn nghìn cao thủ võ lâm chiến đấu cho quê hương.

Đại đởm thập tam kiệt từ biệt Kim sơn tam kiệt. Còn Cao Mang thì đi theo Dã Tượng.

Cả đoàn người ngựa tiến vào thị trấn Giang an. Giang an thuộc quyền trấn nhậm của Vương Kiên. Đô đốc Giang an cũng đã tới. Nhất Kiệt trình bầy chi tiết tội trạng ba tên họ Trịnh, rồi nói nhỏ:

– Ba tên này là người Việt, chúng làm gian tế cho Mông cổ. Ta không kết tội chúng làm gian tế, mà chỉ kết tội ăn cắp chiến mã. Mục đích dụ cho tên Hat San đem vàng chuộc. Khi ta lấy vàng xong thì phóng thích chúng. Đại Việt sẽ bắt lại.

Ba tên họ Trịnh bị điệu ra bờ sông trói vào ba cái cột. Đô đốc Giang an sai người cầm loa đi báo cho dân chúng tới xem xử tử ba tên tội phạm ăn cắp chiến mã.

Chỉ hai khắc sau, dân chúng nườm nượp kéo đến xem xử tội. Ẩn trong dân chúng có cả Địa Lô, Tô lịch thất tiên, Thúy Hồng. Dã Tượng, Cao Mang cũng ẩn vào dân chúng. Lát sau tên Hát San, người Hán luyện Thiền công cùng đám người Hồi cũng tới. Thấy con, cháu, dâu bị bắt, y luống cuống ra mặt.

Đô đốc Giang an cho lệnh đánh ba hồi chiêng trống rồi tiến ra cầm tờ giấy tuyên án ba tên họ Trịnh về tội trộm chiến mã. Cả ba bị kết án tử hình, chém ngang lưng. Bây giờ là giờ Ngọ, đến giờ Thân thì thi hành án. Bản án cũng nói: theo luật của Tống triều, vì ba tên họ Trịnh gốc là người Việt, nên có khoản châm trước. Tội nhân được quyền dùng vàng chuộc mạng. Mỗi mạng một nghìn lượng vàng.

Tuyên án xong, Đô đốc Giang an cùng Kim sơn tam kiệt về dinh trấn thủ, đợi giờ thân sẽ tới làm giám trảm.

Dã Tượng gặp lại Cao Mang thì mừng chi siết kể. Khác với Địa Lô là người đọc sách, tài hoa. Cao Mang từng là ngưu tướng, từng cùng Dã Tượng dự tất cả bẩy trận đuổi Mông cổ, nên anh em có nhiều kỷ nịệm vui buồn. Dã Tượng là thống lĩnh Ngưu binh. Cao Mang làm phó. Khi Dã Tượng lên đường thì Cao Mang thay thế.

Dã Tượng phất tay cho Địa Lô dẫn Cao Mang, Thúy Hồng, Tô lịch về thuyền mình. Vào trong khoang, nhìn nét mặt bẩy cô Tô lịch hiện ra vẻ lo lắng luống cuống. Địa Lô nháy Dã Tượng ngụ ý im lặng chờ xem phản ứng của bẩy con quỷ cái ra sao"

Vừa lúc đó thuyền phu báo:

– Có đạo sĩ Mộ Hợp Mễ An Hat San muốn xin tiếp kiến tướng quân Dã Tượng.

– Cho mời vào.

Phân ngôi chủ khách, Dã Tượng ngồi vào chủ vị, tiếp theo đến Cao Mang, Địa Lô, Thúy Hồng. Hat San ngồi vào vị trí khách. Bẩy nàng Tô lịch ngồi vào vị trí quan sát. Hat San chắp tay vái Dã Tượng:

– Bần đạo lớn gan xin tướng quân giúp cho một việc.

– Tại sao đạo sư biết tôi có thể giúp cho đạo sư"

– Suốt thời gian nửa tháng qua, thuyền của chúng tôi đi sau thuyền của tướng quân, nên tôi nhận ra tướng quân. Tôi biết tướng quân từ mấy năm trước tại Thăng long.

Địa Lô lờ đi như không biết gì:

– Kính chào đạo sư. Năm trước trong lần về Thăng long, tôi có hân hạnh đến cửa hàng của đạo sư mua một thanh đao, cùng ít thước vải. Mấy hôm nay tuy biết đạo sư đi trong con thuyền lưỡi liềm. Nhưng trên đất Tống tôi không dám nhận đạo sư, sợ Tống làm khó dễ thương thuyền của đạo sư.

Cao Mang tiếp:

– Người Việt chúng tôi có câu:

Vạn lý tha hương ngộ cố tri.

Nghĩa là xa quê hương vạn dặm mà gặp người mình quen biết, là điều vui vô cùng. Luật của Đại Việt định rằng: bất cứ người nào cư trú hợp pháp trên toàn lãnh thổ Đại Việt năm năm thì được trở thành người Việt. Đạo sư từng cư ngụ ở Thăng long mấy chục năm thì đạo sư là con dân Đại Việt. Hiện diện ở đây thì tướng quân Dã Tượng là trưởng sứ đoàn, tướng quân có bổn phận phải cứu giúp con dân Đại Việt. Vậy đạo sư có gì khó khăn cứ nói ra; sứ đoàn sẽ hết sức chu toàn.

Hat San chắp tay:

– Gã Trịnh Ngọc kia là con ngoại hôn của bần đạo, cùng vợ con làm thông ngôn cho Mông cổ. Chúng từng giúp bần đạo rất nhiều khi buôn bán qua vùng Mông cổ chiếm đóng. Nay chúng bị Tống kết án tử hình. Bần đạo muốn dùng vàng chuộc chúng ra. Mong tướng quân giúp cho.

Dã Tượng nghĩ:

– Mày muốn giả trá thì tao cũng giả trá. Bộ tao thua mày ư"

Chàng nói:

– Áy à! Khó quá. Để tôi hỏi Tô lịch thất tiên xem.

Chàng quay lại hỏi Hoàng Hoa:

– Trong Tô lịch thất tiên, thì tôi phải gọi cô bằng cô, vì cô là phu nhân của thầy Khai sơn hầu Tạ Quốc Ninh. Ba người họ Trịnh dẫn giải cô từ đâu đến Trấn trì rồi gặp đám Hoa sơn ngũ hiệp"

Hoàng Hoa đáp:

– Trịnh Ngọc được Thái sư Ngột Lương Hợp Thai sai đưa chúng tôi từ Thăng long lên Khâu bắc, vì sợ ở Thăng long không an ninh. Sau lại ra lệnh đưa chúng tôi từ Khâu bắc đi Côn minh. Giữa đường gặp Hoa sơn ngũ hiệp.

Địa Lô hỏi:

– Trong khi đi đường chúng có cử chỉ khinh bạc, hoặc vô lễ với cô không"

– Không! Tuyệt đối không! Chúng hầu hạ cung phụng chúng tôi rất chu đáo. Xin tướng quân cứu mạng bọn y.

Thanh Hoa tiếp lời Hoàng Hoa:

– Trước kia thì Mông cổ với Đại Việt có chiến tranh. Bây giờ hai nước đã giảng hòa. Đại Việt chịu xưng thần, gửi Vũ Uy vương sang làm con tin, tuế cống. Mà ba người họ Trịnh hộ tống chúng tôi đi Côn minh cho Thái sư, nay tướng quân là người của sứ đoàn theo con tin, thì cũng là thần tử Mông cổ. Tướng quân phải cứu ba người họ Trịnh để lập công với đại vương Hốt Tất Liệt.

Thấy Thanh Hoa lộ nguyên hình là kẻ vong quốc, Dã Tượng, Địa Lô, Cao Mang muốn buồn nôn. Nhưng hoàn cảnh phải lờ đi.

Dã Tượng giả vui lòng:

– Vậy thì được. Xin đạo sư đem vàng cho chúng tôi, để chúng tôi vào dinh Đô đốc Giang an chuộc chúng.

Hát San mừng chi siết kể, về thuyền lấy vàng.

Địa Lô hỏi Tô lịch thất tiên:

– Bây giờ tôi hỏi thực bẩy chị. Mong bẩy chị đừng vì lý do gì mà nói trái với lòng mình.

– "!"!"!

– Các chị có hai vấn đề trước mắt. Một là trở về Đại Việt với chồng, hai là đi Mông cổ làm vương phi Thiên triều. Các chị chọn đường n ào.

Thấy Địa Lô dùng chữ Thiên triều, thì Dã Tượng, Cao Mang đều biết rằng chàng mở đường cho bẩy con quỷ cái sang Mông cổ, hơn là đem về Đại Việt. Chúng về Đại Việt sẽ gây ra không biết bao nhiêu xáo trộn, mà kết quả khó thể đoán trước được.

Bẩy nàng nhìn nhau. Rồi Hồng Hoa e thẹn nói:

– Chúng tôi được trời cho tấm nhan sắc, lại có tài ca hát. Trong dịp tuyển phu, chúng tôi tuyển được chồng là những bậc kỳ vỹ nhất nước. Tiếc rằng trời đất nổi cơn gió bụi, chúng tôi được Mông cổ đón đi. Tất cả đã bất trinh, thất tiết thì còn mặt mũi nào về Đại Việt nhìn chồng, nhìn người thân nữa" Mà ví dù tướng quân đưa chúng tôi về Đại Việt thì cũng bị tội voi dầy, ngựa xé. Vậy mong tướng quân cho chúng tôi đi Mông cổ.

Dã Tượng quyết định:

– Thế thì tôi sẽ tấu trình lên Vũ Uy vương, rồi đem bẩy vị dâng cho đại vương Hốt Tất Liệt.

Nghe Dã Tượng hứa, cả bẩy nàng Tô lịch mừng chi siết kể.

Lát sau Hat San đã mang vàng sang. Ngoài ba nghìn lượng chuộc người, y con biếu cho Dã Tượng một nghìn lượng. Dã Tượng dẫn Cao Mang, Địa Lô mang vàng vào dinh Đô đốc Giang an. Anh em Kim sơn tam kiệt thấy anh em Dã Tượng vào dinh thì biết vụ chuộc người đã xong. Đúng ra anh em Kim sơn có thể ôm hết số vàng này, rồi chia cho Đô đốc Giang an một phần. Nhưng ba người là những anh hùng của Tống, họ không muốn gian dối. Nhất Kiệt nói với Đô đốc Giang an:

– Vàng này xin Đô đốc xung vào công khố. Chứ chúng ta không thể, không nên đụng vào.

Tới giờ thân, cả đoàn cùng ra bờ sông. Dân chúng chen chúc xem ba tên trộm chiến mã bị chém ngang lưng. Lẫn trong dân chúng có cả Thất tiên, Thúy Hồng, cùng bọn Hat San.

Chiêng trống ba hồi. Hình binh cầm loa nói lớn:

– Tới giờ hành hình.

Ba hình binh, mỗi người cầm một thanh đao, đứng trước ba tội nhân. Một hình binh vung đao ướm thử vào lưng tên Trịnh Ngọc, khiến y rú lên một tiếng như chó tru.

Cả ba đao phủ lăm lăm cầm đao chờ đợi Đô đốc ném thẻ tử ra là vung đao chặt đôi tội nhân. Bọn họ Trịnh mở to mắt ra nhìn đao phủ. Chúng sợ quá, hai hàm răng đánh vào nhau lộp cộp.

Đô đốc Giang an tuyên án:

– Đúng luật thì cả ba người này bị trảm ngang lưng. Nhưng họ là người Việt. Tả thiên ngưu vệ thượng tướng quân Trần Quốc Kinh là sứ thần đặc mệnh toàn quyền xin đem vàng chuộc người. Vì vậy ba tên trộm này được trao cho sứ đoàn.

Nghe tuyên án, bọn họ Trịnh mừng quá, ngất xỉu. Hình binh cởi trói cho chúng. Chúng đã tỉnh dậy. Dã Tượng giải chúng về thuyền mình.

Thúy Hồng nói với Hat San:

– Bây giờ chúng ta đã nhận họ hàng với nhau rồi, thì thuyền của Đạo sư là thuyền Đại Việt. Chúng tôi có bổn phận phải bảo vệ cả người lẫn tài sản trên thuyền của Đạo sư. Thuyền này chúng tôi thuê của người Thục. Trong ước hẹn thì đến đây là xong. Chúng tôi trả thuyền cho họ. Tất cả chúng tôi sẽ dùng thuyền của Đạo sư xuôi về Đại Việt. Không biết có trở ngại gì cho Đạo sư không"

Nói rồi nàng nhìn Hồng Hoa mỉm cười mà không phải cười. Hat San luống cuống tự hỏi:

– Cái cô này trẻ hơn Hồng Hoa nhiều, sắc đẹp dịu dàng, tươi như hoa mới nở, mà bản lĩnh không tầm thường. Có lẽ cô ta biết truyện mình với Hồng Hoa thì phải. Dường như trong bốn người Dã Tượng, Cao Mang, Địa Lô dã phân chia nhiệm vụ rõ ràng rồi. Cô này phụ trách chi tiêu, mua sắm, nên mỗi khi ăn uống thì cô trả tiền. Ngay việc thuê thuyền cô cũng quyết định.

Hat San không đừng được y trả lời:

– Bần đạo xin tuân lệnh.

Con thuyền lưỡi liềm rời sông Trường giang đi vào địa phận sông Hoành giang.

Chiều hôm sau có chim ưng mang thư của Vũ Uy vương tới. Thư khá dài. Vương cho biết:

1. Hiện vương, vương phi đang trên dường đi Côn minh, nhưng vì cần giải quyết vụ Văn sơn, Khâu Bắc, nên đã quay trở về, không đi Côn minh nữa.

2. Vương đã ra lệnh cho Đô thống Lê Linh Anh (Hĩm Còi), Phó thống lĩnh Ngưu binh đem một Đô (80) Ngưu binh tiến lên Khâu bắc đề phòng có biến cố gì không.

3. Vương cũng ra lệnh cho Đại đởm thập tam kiệt âm thầm đột nhập Văn sơn, Khâu bắc đề phòng âm mưu phản phúc của bọn con cháu Thân Lợi.

4. Kiềm chế, kiểm soát gắt gao bọn Tô lịch thất tiên, bọn Hồi Hat San.

Chiều hôm ấy thuyền tới Chiêu thông. Đây thuộc địa phận Quý châu. Thị trấn này vừa có không khí lưu vực sông Hoành giang, vừa có không khí núi rừng. Hat San từng bôn ba buôn bán qua đây. Y có một cơ sở buôn bán giữa khu chợ chính. Y ngỏ lời mời mọi người lên bờ, vào cơ sở chơi.

Hat San lên bờ một lúc, thì y trở lại với một người Hán to lớn, cử chỉ nho nhã tên Lê Minh Quang. Hat San giới thiệu:

– Trưởng cơ sở của chúng tôi tại Chiêu thông là một người Hán ở vùng Trường sa đến đây lập nghiệp đã hơn hai chục năm tên Lê Minh Quang. Minh Quang giao dịch với hầu hết quan lại Tống trong trấn.

Sau bốn ngày ngồi thuyền, người người đều bứt rứt khó chịu. Bây giờ được lên bờ hưởng khí hậu sông-núi, ai cũng cảm thấy thoải mái. Duy người Hán luyện Thiền công vẫn ở lại. Hát San giảng giải rằng đó là một vị sư Tây tạng xin tháp tùng thương thuyền để hoằng dương đạo pháp. Nhà sư không thích ồn ào nên muốn ở lại thuyền luyện công. Nghe Hat San nói, Dã Tượng mới tỉnh ngộ, chàng cứ thắc mắc tại sao trên thuyền lại có một người mà lúc nào cũng đội mũ. Thì ra nhà sư đội mũ để dấu thân phận.

Thúy Hồng là một Phật tử thuần thành, nghe nói đến một vị sư thì tỏ vẻ kính cẩn:

– Thế mà tôi không biết. Hèn gì từ Giang an tới đây, không thấy người ăn cơm cùng với chúng ta. Thì ra người ăn chay. Không biết người có biết nói tiếng Hán không"

– Ông ta nói được, nhưng rất ít.

Thúy Hồng gõ cửa khoang. Nàng nói tiếng Hán vùng Thục:

– A di đà Phật.

Có tiếng đáp lại:

– Mời thí chủ vào.

– A di đà Phật, đệ tử thực phúc đức được đi cùng thuyền với đại sư mà không biết. Đệ tử không dám thỉnh pháp danh đại sư.

– Bần tăng pháp danh bằng Tạng ngữ, dịch sang tiếng Hoa là A Hàm La.

– Kính mời đại sư lên bờ cho dãn gân cốt.

– Đa tạ thí chủ. Bần tăng muốn được yên tĩnh.

Minh Quang mời khách lên một khu trang trại làm trên sườn đồi. Đường lên đồi trồng rất nhiều loại hoa, hương đưa thơm ngát. Minh Quang nói với Hat San:

– Vùng này không có trộm cắp. Mời Đạo sư cùng các vị lên bờ nghỉ vài ngày.

Y nói với đám thuyền phu:

– Anh em cũng lên bờ thôi. Thuyền cứ neo trên bến, tôi sẽ cử một vài vệ sĩ xuống thuyền canh gác.

Với một đoàn 40 người y phục khác lạ vào thị trấn, dân chúng nhìn bằng con mắt tò mò. Minh Quang mời Hat San cùng đám đệ tử Hồi giáo nghỉ trong một căn nhà có bàn thờ. Đám người Hán phần đông là thuyền phu nghỉ trong một căn nhà dựa vào chân núi. Y mời nhóm Dã Tượng, Tô lịch nghỉ trong căn lầu đẹp nhất.

Y nói với Hat San:

– Chư vị có y phục cần giặt cứ thay ra, trong trang này đệ tử có bốn tỳ nữ lo giặt cho các vị.

Không đầy một giờ sau đầu bếp của Quang Minh đã chuẩn bị xong bữa tiệc với mười món ăn. Đám thuyền phu người Hán, đám đệ tử người Hồi của Hat San ăn riêng. Hat San, với ba tên họ Trịnh cùng ăn với nhóm Dã Tượng.

Ăn xong, Thúy Hồng thân vào bếp làm mấy món chay, đích thân mang đến thuyền cho vị tăng. Nàng bầy ra bàn, xới cơm kính cẩn:

– Thỉnh đại sư.

Rồi nàng chắp tay lui ra sau đứng hầu. Từ hôm đáp thuyền lưỡi liềm đến giờ trải hơn tháng A Hàm La chỉ được ăn vài món rau luộc với muối. Hôm nay được ăn mấy món chay vùng Việt, ông ăn nhiều vô cùng.

Đợi ông ăn xong, Thúy Hồng dọn bát đũa, rồi từ biệt ông lên trang trại. Khi Thúy Hồng quay đi, ông dùng ngón tay gõ vào mạn thuyền ba tiếng. Âm kình nhẹ nhàng, nhưng vang đi rất xa. Lúc Thúy Hồng rời cầu lên bờ nàng lại nghe ba tiếng nữa. Nàng thắc mắc tự hỏi:

_ Vị Thiền sư này gõ ba tiếng ngụ ý gì đây"

Chợt nàng tỉnh ngộ: một lần lên chùa Tiêu sơn nghe giảng kinh, sư phụ giảng Thiền sử về giòng Thiếu lâm có đoạn:

" Bồ-đề Đạt-ma là tổ thứ hai mươi tám dòng thiền Tây-trúc qua Lĩnh-Nam hoằng dương đạo pháp, rồi tới Trung-thổ. Ngài diện bích chín năm tại núi Tung-sơn, sau truyền tâm-ấn cho Huệ-Khả (486-593). Huệ-Khả truyền cho Tăng-Sán (606). Tăng-Sán truyền cho Đạo-Tín (580-674) . Đạo-Tín truyền cho Hoằng-Nhẫn (601-674). Hoằng-Nhẫn truyền cho Huệ-Năng (638-713). Cuộc truyền tâm ấn của ngũ tổ Hoằng-Nhẫn cho lục tổ Huệ-Năng là một giai thoại kỳ thú. Cuộc truyền tâm ấn như sau:

Một hôm ngũ tổ Hoằng-Nhẫn gọi tất cả đệ tử trong chùa lại dạy rằng:

_ Ta nói cho các người biết. Trong kiếp sống thì sinh tử là lẽ lớn. Thế mà các người chỉ đi tìm cái phước điền, chứ không tìm cách thoát khỏi bể khổ. Các người u mê về lý tính thì phúc điền có đạt chăng nữa cũng không cứu được các người. Các người hãy trở về với chân tâm, tự xét chân tâm, tìm lấy cái gốc chân tâm. Tự chân tâm sinh ra gốc của nó, và ánh sáng Bát-nhã. Mỗi người làm một bài kệ trình ta xem. Nếu người nào kiến tính giác ngộ được, ta sẽ truyền y bát để trở thành lục tổ của dòng Thiền-tông.

Sư Thần-Tú vốn người học rộng, biết nhiều, lại là học trò giỏi nhất của Hoằng-Nhẫn; ông trở về phòng làm một bài kệ. Đêm đó ông viết bài kệ của mình ở hành lang chùa, bầy tỏ sở kiến. Bài kệ như sau:

Thân thị Bồ-đề thụ,

Tâm như minh kính đài.

Thời thời cần phất thức,

Vật xử nhạ trần ai.

Nghĩa là:

Thân tại gốc Bồ-đề,

Tâm như đài gương sáng.

Thời thời cần lau sạch.

Đừngđểnhum bi trn.

Canh ba, tổ Hoằng-Nhẫn gọi Thần-Tú vào bảo đường hỏi rằng:

_ Có phải bài kệ viết ở hành lang là do nhà ngươi làm không"

Sư Thần-Tú đáp:

_ Chính là đệ tử làm. Đệ tử không dám hy vọng được làm lục tổ. Chỉ mong sư phụ xét xem đệ tử có chút ánh sáng trí tuệ nào không.

Tổ Hoằng-Nhẫn đáp:

_ Nhà ngươi kiến giải trong bài kệ ấy; là chưa thấy được gốc của tính, mới đến cửa Bồ-đề chứ chưa nhập vào Bồ-đề được. Nhà ngươi kiến giải như vậymà muốn vào Vô-thượng Bồ-đề thì chưa tới. Muốn đạt Vô-thượng Bồ-đề phải hiểu tại ngoài lời nói, để nhận thức cái gốc của chân tâm. Gốc của chân tâm là bất sinh bất diệt, không lời nào nói ra được. Bất cứ lúc nào, ý nào cũng tự nó hiện ra mà có. Tất cả đều không. Một là chân tất cả đều là chân. Muôn vàn cảnh giới đều là như như. Cái ý thức về như như ấy là chân thực. Nếu nhà ngươi kiến giải được như vậy, thì mới có tự tính Vô thượng Bồ-đề. Sau đây nhà ngươi suy nghĩ vài ngày, làm một bài kệ khác, đưa trình ta xem. Nếu tỏ ra nhập được vào cửa Bồ-đề thì ta truyền tâm ấn cho.

Thần-Tú tở về, mấy ngày sau tinh thần hoảng hốt không làm được bài kệ nào.

Cách đó mấy ngày, có chú tiểu đi qua chỗ dã gạo, miệng đọc bài kệ của Thần-Tú. Bấy giờ có nhà sư Huệ-Năng, vốn người Việt xin vào tu ở chùa Thiếu-lâm từ lâu. Vì sư không biết chữ, nên được giao cho công việc dã gạo. Tuy vậy sư nghe ngũ tổ giảng kinh, thì hiểu thấu đáo ngay. Nay nghe chú tiểu đọc bài kệ của Thần-Tú. Huệ-Năng thấy ngay bài kệ đó chưa hiện ra gốc của tính. Ông làm một bài kệ khác như sau:

Bồ- đề bản vô thụ,

Minh kính diệc phi đài.

Bản lai vô nhất vật,

Hà xứ nhạ trần ai"

Nghĩa là:

Bồ-đề chẳng có gốc,

Minh kính cũng không đài.

Xưa nay nào có vật,

Đâu nơi nhuốm trần ai"

Yếu chỉ của Thiền-tông là kinh Kim-cương, Lăng-già, Bát-nhã. Tất cả đều qui về tính không, tức sao bỏ được vọng tâm là ngã tướng. Muốn thế phải dứt được Ngũ-uẩn, Lục-trần, Nhân-ngã tứ tướng. Thế mà bài kệ của Thần-Tú vẫn còn đủ sắc, tướng: Thân là ngã tướng. Bồ-đề là thọ giả tướng. Tâm lại là ngã tướng nữa. Minh kính đài là chúng sinh tướng. Thời thời, phất thức, vật xử là thọ giả tướng. Trần ai là thọ giả tướng. Như vậy là vẫn trần tục.

Bài kệ của Huệ-Năng làm tổ Hoằng-Nhẫn vui mừng. Hôm sau tổ tới nhà dã gạo, thấy Huệ-Năng đang dã gạo, bèn hỏi:

_ Người học đạo phải thế nào" Nhà ngươi dã gạo trắng chưa"

Ý tổ hỏi ngoài lời nói: Tâm sáng, nhập vào Bồ-đề, thế đã chuẩn bị nhận y bát chư"

Huệ-Năng trả lời:

_ Gạo tôi dã sạch lắm. Còn thiếu cái sàng thôi.

Ý nói rằng: Tâm đã trong, chỉ còn chờ truyền tâm ấn.

Tổ cầm gậy gõ vào cối ba cái, rồi bỏ đi. Ý nói canh ba Huệ-Năng lên bảo đường gặp ngài. Canh baHuệ-Năng lên phòng tổ, được tổ giảng yếu chỉ kinh Kim-cương, Lăng-già, rồi truyền y bát“.

Thúy Hồng nghĩ thầm:

_ Vị đại sư này định giảng gì cho mình đây! Ngài giảng gì cũng được. Nghe các thầy giảng kinh có bao giờ mình chán đâu. Chả biết canh ba này mình có phải xuống thuyền không" Theo lời Minh Quang thì tối sẽ có người lên thuyền canh gác. Như vậy có hơi bất tiện.

Trời về chiều, Minh Quang hỏi Hat San:

_ Đạo sư! Không biết những vị đây là thế nào với Đạo sư"

Hat San đi một vòng giới thiệu. Trước hết y giới thiệu bọn Trịnh Ngọc. Rồi mới giới thiệu nhóm Dã Tượng.

Cơm chiều xong Địa Lô, với bẩy nàng Tô lịch đem đàn, trống ra ca hát. Đám gia nhân của Minh Quang; đám đệ tử, đám thuyền phu của Hat San lần đầu tiên được thưởng thức những âm điệu tuyệt diệu của thế gian. Họ ngây người ra ngồi nghe.

Trước đây Thúy Hồng chỉ học văn, học ca hát. Từ ngày theo sứ đoàn Vũ Uy vương bắt tất cả năm nàng phải luyện võ cho thân thể khỏe mạnh, nhất là tự vệ khi cần thiết. Người dạy là Tạ Quốc Ninh. Nàng đã được học võ công căn bản của phái Sài sơn gồm mười đòn tay, mười đòn chân, phản đòn tay, phản đòn chân. Sau đó 3 bài bài quyền, cùng nội công tâm pháp. Từ hôm rời sứ đoàn, tối nào Dã Tượng cũng bắt nàng ôn tập. Vì vậy sức khỏe của nàng tăng tiến kỳ lạ.

Suốt thời gian đi thuyền, nàng không có nơi ôn luyện võ, vì vậy chân tay nặng nề, đi đứng mất linh động. Hôm nay ở trong trang trại nằm trên sườn đồi đầy hoa thơm, cỏ lạ. Khi trời xụp tối, nàng xuống một góc vườn ôn luyện võ công. Sau khi đi hết 3 bài quyền, thì trời đã về khuya, nàng hướng con thuyền lưỡi liềm khoan thai rảo bước. Thình lình có tiếng cháttừ phiến đá trên dốc đồi trước mặt phát ra, cùng với tia lửa. Kinh ngạc nàng chạy tới xem, thì lại có tiếng chát tóe lửa ở phiến đá cao hơn. Nàng tung mình lên xem, thì lại có tiếngchátkhác. Cứ thế sau 5 tiếng thì nàng đã ở trên đỉnh đồi. Đỉnh đồi có khu đất khá bằng phẳng. Đứng tại đây có thể nhìn thấy toàn trấn Chiêu thông. Gió thổi làm y phục nàng bay phần phật.

Hương thơm núi rừng cho Thúy Hường cảm giác sảng khoái nàng cất tiếng hát một bài Quan họ. Khi vừa ngừng thì nàng phát hiện ra có tiếng ngưới hô hấp. Nhìn về phía ấy, nàng giật mình khi thấy nhà sư A Hàm La đang ngồi luyện công. Tỉnh ngộ, nàng biết vị đại sư này dùng thủ pháp gì đó bắn đá dẫn dụ nàng lên đây. Nhà sư cất tiếng trầm trầm:

_ Thí chủ! Thí chủ với bần tăng vốn có thiện duyên từ kiếp trước, nên chúng ta gặp nhau dưới con thuyền. Bần tăng biết thí chủ là một Phật tử thuần thành, nên muốn truyền cho thí chủ mấy thức Mật công.

Thúy Hồng mừng lắm nàng chắp tay:

_ Đa tạ sư phụ.

A Hàm La bảo Thúy Hường ngồi Kiết già trên phiến đá cạnh đó, rồi ông giảng giải yếu chỉ kinh Tượng đầu tinh xá. Oâng nói:

_ Hôm nay ngoài những thức Thiền công, thầy dạy cho con pháp thứ nhất trong 36 pháp của Mật tông.

Ông dạy nàng thở hít, vận khí, dẫn khí. Khi nàng thở được hai chục thức thì lạ thay, mắt nàng như xụp xuống, rồi trầm vào nhập tĩnh không biết gì. Thế nhưng bên tai, nàng vẫn nghe tiếng ông nói. Oâng dạy nàng phương pháp nghe người đối thoại với mình, mà hiểu những gì người đó nói.

Tếng chim hót líu lo buổi sáng làm Thúy Hồng tỉnh giấc. Mặt trời đang ló dạng, ước đã sang giờ mão. Nàng vẫn ngồi trên phiến đá. Còn A Hàm La thì không thấy đâu. Chân khí trong người lưu thông, sảng khoái không bút nào tả siết, nàng tung mình đứng dậy phóng xuống đồi. Nhưng kỳ lạ không, cái tung mình đưa thân thể nàng lên cao, nhẹ nhàng như bay vậy. Nàng nghĩ thầm:

_ Thì ra sư phụ dạy nàng những thức Mật công thượng thừa. Khinh công của mình đến như thế này thì bỏ xa cả thầy Tạ Quốc Ninh rồi.

Mọi người trong trang đã tỉnh giấc, đang ăn điểm tâm.

Dã Tượng hỏi:

_ Cô tiên nữ Thúy Hồng ơi! Mọi khi cô thức giấc sớm nhất, sao hôm nay lại dậy muộn vậy"

Nhìn Dã Tượng, Thúy Hường thấy người anh này ngùn ngụt những tình cảm lo cho mình như lo cho một cô em gái. Không muốn nói dối, nhưng cũng không muốn khai thực, Thúy Hồng mỉm cười chỉ lên đỉnh đồi:

_ Trên đỉnh đồi có chỗ đất bằng phẳng, em lên đó ngồi luyện công, chứ có phải ngủ trưa đâu"

Nói dứt, nàng lại thấy rõ Dã Tượng dang nghĩ: làm sao con bé lại leo lên đỉnh đồi luyện công, mà không luyện ở dưới này. Nàng đáp:

_ Em lên đỉnh đồi vì có một lẽ huyền bí dẫn dụ lên.

Cứ thế, sau mỗi câu nàng trả lời thì Dã Tượng lại suy nghĩ về nàng. Nàng lại đọc được ý nghĩ của ông anh. Dã Tượng kinh ngạc:

_ Thúy Hồng ơi! Em học được Thông thiên pháp của Mật tông Tây tạng từ bao giờ vậy"

_ Mới thôi anh ạ.

Suốt ba ngày ở Chiêu thông, ngày nào Thúy Hồng cũng làm cơm chay cúng dàng cho sư A Hàm La, rồi tối tối nàng lại lên đỉnh đồi luyện Thiền công với nhà sư. Ngày thứ nhì trở đi, mỗi ngày ông dạy nàng 5 pháp Mật tông nữa. Hôm đầu tiên thì sau khi luyện 20 thức thì nàng đã nhập tĩnh sâu sa. Sang ngày thứ nhì thì đến 40 thức nàng mới nhập tĩnh. Tới đêm thứ tư thì nàng luyện tới 100 thức mới nhập tĩnh. Hôm nay, ông không cần nói, chỉ ngồi nhắm mắt dùng thần thức giảng cho nàng. Còn nàng chỉ cần nhìn ông mà hiểu được ông giảng gì, nói gì. Nàng luyện tới sáng chỉ thấy riu riu mà không nhập tĩnh nữa.

Dã Tượng đốc thúc mọi người lên đường.

Thuyền đi đến chiều thì thuyền trưởng báo với Hat San:

_ Thưa đạo trưởng chỉ còn hơn giờ nữa thì chúng ta đến địa phận Lục bàn thủy. Từ Lục bàn thủy về nam sông hẹp, nước cạn, thuyền chúng ta lớn quá đi không được. Xin đạo trưởng quyết định.

_ Neo thuyền tại bến Lục bàn thủy.

Vừa lúc đó, có tiếng tài công la lớn:

_ Đánh nhau. Trên bờ có hai đạo quân đang đánh nhau.

Hát San, bọn Dã Tượng cùng kéo nhau lên sàn thuyền nhìn về phía bờ trái: trên cánh đồng rộng mênh mông, có hai đạo quân y phục giống nhau, dàn ra đối diện đang giao chiến dữ đội.

Địa Lô quan sát rồi nói:

_ Một đạo quân mang cờ Khâu bắc, một đạo quân mang cờ Văn sơn. Đạo quân mang cờ Khâu bắc do đại sư Huệ Đăng, Lý Như Lan và Khâu bắc ngũ hổ tướng đứng đầu. Đạo quân mang cờ Văn sơn do Lý Long Vân và một Thiên phu Mông cổ đứng đầu. Đạo Khâu bắc nhờ có đại sư Huệ Đăng , Như Lan, Khâu bắc ngũ hổ, võ công trấn tiền lộ yểm trợ. Còn đạo quân Văn sơn nhờ có Thiên phu kị mã Mông cổ thiện chiến trợ giúp, nên chưa phân thắng bại.

Dã Tượng ra lệnh:

_ Địa Lô, Cao Mang, chúng ta mau tiếp ứng cho đạo Khâu bắc.

Ba người nhảy lên bờ xung vào phía hông trận Văn sơn. Cao Mang đứng lên một mỏm đá, dương cung. Giữa lúc đó có nhiều tiếng rú kéo dài rùng rợn, một bách phu kị mã Mông cổ dàn hàng ngang xung vào trận Khâu bắc. Chúng cùng dương cung bắn ra, rồi quay ngựa trở lại. Tên bị Huệ Đăng, Như Lan, Ngũ hổ tướng đứng đầu vung vũ khí gạt rơi xuống đất. Nhưng tên cũng lọt vào trận Khâu bắc khiến hơn chục người bị lật ngược. Lại tiếng hú man rợ, bách phu thứ nhì lao tới.

Cao Mang bắn liên tiếp mười mũi tên chặn lại. Vèo, mũi tên thứ nhất bay đến trúng giữa lưng một bách phu trưởng Mông cổ. Tên xuyên qua tới ngực, tên bách phu trưởng ngã lộn xuống ngựa; Cao Mang bắn liên tiếp mười mũi, mười kị mã Mông cổ chết. Mười kị mã cùng ngựa ngã chặn phía trước. Đợt kị mã Mông cổ thứ nhì bị rối loạn. Sư Huệ Đăng thấy mình có viện binh, thúc quân tiến lên. Hai bên lẫn vào nhau.

Địa Lô nói với Cao Mang:

_ Anh với em bắn vào bọn cận vệ tên Long Vân, để anh Dã Tượng xung vào bắt sống y.

Vèo vèo, hai mũi tên bay ra, hai cận vệ Long Vân bị ngã. Đã Tượng đoạt được một cây côn sắt chàng xung vào trận Mông cổ. Gậy vụt xuống, một kị mã gẫy đôi, hai gậy vụt xuống hai kị mã gẫy đôi. Chàng tung mình vọt lên cao, đáp xuống lưng một chiến mã. Cứ như thế, sau năm bước chàng đã tới trước mặt Long Vân. Long Vân thấy Dã Tượng thì hồn phi phách tán. Y vọt ngựa về sau bỏ chạy. Dã Tượng nhảy xuống đất túm đuôi ngựa y, dùng một chiêu Đảo mã cửu lộ thức, giật mạnh. Con ngựa ngã chổng vó lên trời. Long Vân vọt mình lên một chiến mã Mông cổ, phi về phía sau.

Một bóng người xẹt tới như tia chớp, chỉ mấy bước đã chặn trước đầu ngựa Long Vân. Long Vân kinh hoàng giật cương cho ngựa chụp lên đầu người kia. Người kia tung mình lên cao, chân đáp phía sau Long Vân, tay đẩy mạnh. Y ngã xuống ngựa. Dã Tượng túm tóc nhắc y lên như nhắc con gà:

_ Mau hô bộ hạ buông vũ khí, bằng không tao xé xác mày làm đôi.

Bấy giờ Dã Tượng mới nhìn lại xem người chặn Long Vân là ai" Chàng kinh ngạc đến ngẩn người ra, vì đó là Thúy Hồng.

Địa Lô, Cao Mang đã tới đứng cạnh Dã Tượng. Long Vân kinh hồn hét lớn:

_ Ngừng chiến. Lui lại! Buông vũ khí đầu hàng.

Dã Tượng vận khí hô lớn:

_ Quân Văn sơn, Khâu bắc nghe dây! Chúng ta là người Việt, không nên tàn sát nhau. Mau lui lại.

Quân Khâu bắc, Văn sơn lùi lại. Thế là Thiên phu Mông cổ phía trước bị quân Khâu bắc chặn, phía sau bị quân Văn sơn cản đường. Nhưng là đội binh thiện thiến, Thiên phu Mông cổ đổi thế trận lao về hông trái.

Dã Tượng, Cao Mang, Địa Lô dương cung bắn theo, viên Thiên phu bị trúng ba mũi tên, nhào xuống ngựa. Không hổ là đội quân thiện chiến nhất gầm trời, một Bách phu trưởng thay Thiên phu chỉ huy. Đội hình Mông cổ lại củng cố, dàn ra uy nghiêm đối diện với trận Khâu bắc.

Ba tiếng trống, một tiếng chiêng, trận Khâu bắc mởû ra, rồi tiếng tù và tu tu rúc lên. Hai đội trâu, mỗi đội 40 con dàn hàng ngang từ từ tiến ra. Một nữ tướng đứng trên lưng trâu, tay cầm khiên mây chống tên, tay cầm cờ chỉ huy. Dã Tượng nhận ra đó là Ngưu tướng vùng Kinh Bắc, Hĩm Còi. Trên lưng tất cả trâu, đều có một người cỡi. Kị binh Mông cổ dương cung bắn. Mục đồng đưa khiên mây ra hứng. Tên găm vào khiên mây. Phút chốc ngựa, trâu lẫn vào nhau. Mục đồng từ lưng trâu lăn xuống đất dùng đoản đao chặt chân ngựa. Trận Mông cổ bị vỡ, trước sau tử trận chỉ còn năm bách phu. Một tiếng hú kéo dài. Thiên phu Mông cổ bỏ chạy về phía chân núi.

Nhưng từ chân núi một đội kị mã dàn ra phía trước. Đó là đội kị mã Long biên được phái theo hộ vệ sứ đoàn. Hai bên phải, trái hai đội Ngưu binh. Trống thúc nhịp nhàng. Thế là Thiên phu Mông cổ bị bao vây vào giữa.

Thúy Hồng, Dã Tượng, Địa Lô, Cao Mang theo đội Ngưu binh lao vào trận tuyến. Phía Khâu bắc Huệ Đăng, Như Lan, Khâu bắc ngũ hổ tướng cũng xung vào trận. Cuộc chiến kéo dài hơn nửa giờ, phía Mông cổ chỉ còn hơn hai trăm kị mã.

Dã Tượng cầm tù và rúc lên. Ngưu binh từ từ lui lại. Địa Lô hô lớn bằng tiếng Mông cổ :

_ Mau đầu hàng bằng không sẽ chết hết.

Đám tàn binh Mông cổ buông vũ khí đầu hàng.

Hai đạo quân Văn sơn, Khâu bắc đang chém giết nhau, bây giờ được tập trung lại.

Đại sư Huệ Đăng nhìn Thúy Hồng từ đầu đến chân như muốn hỏi điều gì. Tất cả mọi người cùng hướng mắt nhìn nàng. Thúy Hồng hỏi :

_ Không biết đại sư có gì dạy bảo đệ tử không "

_ Không dám ! Bần tăng với cô nương chia tay không lâu mà dường như dung quang cô nương thay đổi hẳn. Này nhé : thần thái rực rỡ, da tươi hồng, mắt chiếu ra tia sáng long lanh, trông xa như một Quan Thế âm vậy. Một điều kỳ lạ là mới đây khinh công của cô nương bình thường thôi, mà nay siêu việt như vậy, e bỏ xa bần tăng.

Thắc mắc của sư Huệ Quang cũng là thắc mắc của đám Dã Tượng. Dã Tượng hỏi đại sư Huệ Quang:

_ Đại sư! Sự thể ra sao, mà lại có cuộc chém giết này"

Như Lan thuật.

Sau khi rời Bồ lăng, đại sư Huệ Quang muốn dùng Lý Long Vân để bình định hai châu Khâu bắc, Văn sơn. Nên vẫn giữ thể diện cho y, không trói y, vẫn cho y làm châu trưởng. Cả đoàn đi trong 7 ngày thì về đến Khâu bắc. Như Lan sai tập họp thủ hạ Long Vân lại, bắt y tuyên bố Ngũ sựnhư đã quyết định tại Bồ lăng.

Dân chúng reo hò mừng rỡ. Nhờ được tự do, đêm Long Vân trộm ngựa trốn về Văn sơn. Y tập họp quân sĩ lại, chuẩn bị kéo đi chiếm lại Khâu bắc. Y gửi người đến cầu cứu với Thiên phu Mông cổ đóng tại Chiêu dương. Hai bên hợp nhau tái chiếm Khâu bắc.

Đại sư Huệ Đăng, Như Lan, Ngũ hổ tướng Khâu bắc đem quân chống lại. Trận chiến suốt một ngày, phần thắng nghiêng về phía Long Vân thì Dã Tượng, rồi Ngưu binh xuất hiện.

Dã Tượng gặp lại Ngưu binh thì mừng chi siết kể. Chàng hỏi :

_ Hai năm qua anh đi vắng, ở nhà có gì xẩy ra không "

Một thiếu nữ da ngăm đen, mắt sáng như sao, cổ đeo tù và, lưng đeo kiếm, ngực nở căng, dáng người thanh nhã hành lễ quân cách :

_ Đô thống Lê Linh Anh, vệ trưởng vệ Ngưu binh thống thuộc đạo Tinh cương, tham kiến Trần thống lĩnh.

Dã Tượng đưa mắt hỏi Cao Mang :

_ Là " Là ai vậy.

Cao Mang bật cười :

_ Khi anh lên đường thì em thay anh thống lĩnh Ngưu binh. Ngưu binh được phân chia cho mỗi hiệu binh một vệ. Hĩm Còi chỉ huy vệ của hiệu binh Tinh cương. Triều đình thấy các tướng trâu đều có hàm cả mà cứ dùng tên Cu, Hĩm, Trâu, Cái nghe không thuận, mới đặt cho mỗi đứa một tên. Còn họ thì giữ nguyên. Hĩm Còi có tên là Lê Linh Anh. Hĩm Cao có tên Vũ Linh Hương. Hĩm Lùn có tên Trần Linh Trang. Hĩm Rỗ có tên Phạm Linh Phong. Hĩm Hô có tên Hoàng Linh Thạch.

Dã Tượng nắm lấy tay Linh Anh :

_ Oâi mới có hai năm mà em tôi lớn lên, xinh đẹp thế này đây. Thì em cứ gọi anh là Dã Tượng, anh vẫn gọi em là Hĩm Còi nghe hay hơn.

Có tiếng nói thanh thoát bên cạnh :

_ Anh Dã Tượng ơi ! Anh thử nhìn lại cô em Linh Anh một tý nào " Về hàm cô đã là Đô thống. Về nhan sắc, cô là thiếu nữ xinh đẹp, thân thể nở nang. Thế mà anh cứ gọi là Hĩm Còi nghe không thuận tý nào cả.

Thúy Hồng đã đến từ hồi nào. Nàng cỡi trên lưng một chiến mã cướp được của Mông cổ. Nghe Thúy Hường trách, Dã Tượng vội bỏ tay Hĩm Còi ra, vì bây giờ nàng không còn còi nữa, mà là một thiếu nữ dậy thì như hoa mới nở khoe sắc.

Bất giác chàng so sánh Hĩm Còi với Thúy Hồng : cả hai đang tuổi dậy thì, cùng tươi như hoa ban mai. Nhưng Thúy Hường có vẻ đẹp ủy mị, còn Hĩm Còi thì đẹp hồng hào, tươi thắm.

Ba anh em Dãõ Tượng trở lại con thuyền lưỡi liềm, thì thuyền đã không còn đậu ở bên sông nữa. Địa Lô than :

_ Trong khi chúng ta mải tiếp cứu đạo quân Khâu bắc thì bọn Hat San đã bỏ trốn. Phải sai chim ưng báo cho Thủy quân Tống ở Chiêu thông chặn bắt cho ta mới được.

Thúy Hồng than :

_ Nguy qua ! Y phục, vàng bạc, cũng như sắc lệnh, thư tín của chúng ta đều ở trên thuyền. Bọn Hat San sẽ nộp cho Mông cổ.

Lê Linh Anh an ủi Thúy Hồng :

_ Chị đừng lo! Từ khi phái đoàn rời con thuyền thuê của người Thục di chuyển sang con thuyền lưỡi liềm, thì Đại đởm thập tam kiệt được lệnh Vũ Uy vương âm thầm theo dõi trong bóng tối, đề phòng rất cẩn thận rồi.

Linh Anh hỏi Thúy Hồng:

_ Em nghe nói chị là một ca nhi nức danh Kinh bắc. Không biết chị học võ với ai mà khinh công đến trình độ em chưa từng thấy qua. Lúc chị xung sát, em thấy chị chỉ xử dụng những chiêu số rất tầm thường của phái Sài sơn, nhưng nhờ công lực thâm hậu, nên khi kiếm của chị chạm vào vũ khí bọn Mông cổ, thì vũ khí của chúng bị văng ra xa.

Thúy Hồng đã học được 24 pháp của Mật tông. Nàng vận khí nhìn mọi người, thấy trong tâm họ đều thắc mắc. Cao Mang thì :

“Con bé xinh đẹp này chỉ mới học được mấy cái múa. Nhưng nội công thì thâm hậu vô cùng”.

Địa Lô thì nghĩ :

“ Con bé này học đâu được Thiền công giống Thiền công Tây tạng”.

Nàng trả lời:

_ Đúng như anh Cao Mang nghĩ, em chỉ mới học được mấy đòn căn bản và ba bài quyền của phái Sài sơn. Còn anh Địa Lô đoán em học Thiền công giống Thiền công Tây tạng quả không sai. Đó là Mật công chính tông của Tây tạng.

Địa Lô, Cao Mang giật mình, vì Thúy Hồng đọc được ý nghĩ mình.

Cao Mang nói với Dã Tượng, Địa Lô:

_ Anh cả, chú năm. Em thấy từ khi đến Chiêu thông tới giờ Thúy Hồng có những thay đổi rất lạ lùng, rất mau. Trước hết là phong thái, trước kia thì phong thái của một ca nhi, đằm thắm, dịu dàng, toát ra nét thanh tao của một giai nhân. Bây giờ thì gương mặt phong quang rạng rỡ, mắt chiếu ra tia sáng ngời, tóc óng mượt, da mịn màng, dáng đi nhẹ nhàng như lướt trên đất. Nhìn chung thì Thúy Hồng mất hết những nét thế tục của một ca nhi, một hoa khôi, mà tư thái hơi giống một Quán thế âm Bồ tát.

Hồng chỉ về phía trước reo lên :

_ Dã Tượng, anh coi kìa !

Nhìn theo tay Thúy Hường, Dã Tượng thấy xa xa cờ Đại Việt la liệt trên các cây cao. Dã Tượng hỏi đại sư Huệ Đăng:

_ Phải chăng đại sư đã kinh lý Văn sơn"

_ Không, bần tăng chưa chiếm được Văn sơn.

Khâu bắc ngũ hổ tướng chia nhau, Lý Đại, Lý Anh, Lý Hùng theo Dã Tượng tiếp thu Văn sơn. Còn Lý Hào, Lý Kiệt đem quân Khâu bắc trở về nơi đồn trú.

Đoàn người sắp tới châu Văn sơn thì thấy binh sĩ hiệu Tinh cương đóng thành hai ba khu khác nhau. Vương phi Vũ Uy cùng bốn nàng Thanh Nga, Thúy Nga, Thúy Trang, Hồng Nga đều mặc võ phục, cỡi ngựa.

Thanh Nga thấy Dã Tượng, thì không tự chủ được, nàng thúc ngựa tới cạnh chàng. Nàng định lên tiếng, nói ra nỗi nhớ nhung sau thời gian dài xa cách, nhưng trước mặt nhiều người, nàng gọi:

_ Anh! Anh! Em...

Dã Tượng đâu phải là gỗ, chàng nhìn Thanh Nga với tất cả thương yêu:

_ Cô em tiên nữ. Em mặc võ phục đẹp quá!

Vương phi hỏi:

_ Cháu, sao tới chậm vậy"

Dã Tượng kinh ngạc hỏi:

_ Thì ra chú thím.

Dã Tượng mừng rỡ: khi cháu thấy quân Văn sơn, Khâu bắc dàn ra đánh nhau. Quân Khâu bắc có Ngưu binh yểm trợ, cháu chỉ đoán rằng Khu mật viện Bắc cương gửi Ngưu binh sang trợ chiến thôi. Nào ngờ...

Vương phi mỉm cười:

_ Chú thím đang trên đường đi Côn minh, thì nhận được tin tức của cháu, nên quay trở về. Trên đường đi chú điều đạo Tinh cương, Đại đởm thập tam kiệt tại Bắc cương lên đóng sát biên giới đề phòng biến cố. Khi chú biết tên Lý Long Vân trốn về Văn sơn đem quân tái chiếm Khâu bắc, chú điều đội kị mã Long biên với Ngưu binh chặn đường rút lui của Mông cổ. Còn hiệu Tinh cương tiến vào giải phóng Văn sơn.

Vương phi thấy ba trong Thiên trường ngũ ưng thì mừng lắm:

_ Ba cháu vào mau, vương gia đang chờ các cháu.

Tuy chỉ làm chúa hai châu Văn sơn, Khâu bắc, nhưng tổ tiên bọn họ Thân trải qua năm đời cai trị, nên tài vật súc tích. Họ xây dựng cung điện nguy nga giống như Hoàng thành Thăng long: cung Long thụy, Long an, điện Giảng võ, Khu mật viện. 

Vương phi Ý Ninh chỉ Khu mật viện:

_ Vũ Uy vương đang chờ các vị trong đó.

Vũ Uy vương đứng dậy chắp tay chào đại sư Huệ Đăng:

_ A di đà Phật. Đệ tử Trần Nhật Huy xin ra mắt đại sư.

_ Không dám! Bần tăng từ vạn dặm xa xôi, đã từng được nghe danh tiếng của đại vương như sấm động bên tai. Hôm nay được bái kiến thực vinh hạnh vô cùng.

Vương hướng Như Lan:

_ Quận chúa! Hai chục vạn dân hai châu Văn sơn, Khâu bắc được thấy ánh sáng mặt trời một phần lớn do công lao của quận chúa. Quận chúa là hiện thân của công chúa Bình Dương, Kim Thành, Trường Ninh, Thiên Ninh, Đoan Nghi.

_ Đa tạ vương gia quá khen. Hằng ngày phụï vương luôn nhắc nhở chúng tôi rằng tuy sống cách biệt với đất nước, tuy thành danh nơi quê người, nhưng không bao giờ được quên mình là giòng giống Tiên Rồng.

Dã Tượng trình bầy tất cả những diễn biến tứ khi tuân chỉ Vũ Uy vương lên đường đi sứ: nào là gặp Tô lịch thất tiên bị tên Trịnh Ngọc tuân lệnh Ngột Lương Hợp Thai giải đi cống cho Hốt Tất Liệt. Nào là gặp Hoa sơn ngũ hiệp giải cứu Thất tiên. Nào là cuộc họp với Vương Kiên: Đại Việt sẽ trao hơn nghìn cao thủ Trung nguyên về với Tống, để họ chống Mông cổ bảo vệ quê hương. Nào là Đại Việt huấn luyện, trang bị Hoa kiều thành một hiệu binh, tương lai sẽ trở về nước chiến đấu. Nào là đại sư Huệ Đăng, quận chúa Lý Như Lan chiêu mộ Khâu bắc ngũ hổ bỏ Lý Long Vân về với triều đình. Nào là kiềm chế Lý Long Vân. Nào là gặp Mộ Hợp Mễ An Hat San. Cuối cùng là giải phóng dân chúng hai châu Khâu bắc và Văn sơn.

Vũ Uy vương mỉm cười:

_ Thế bọn Hat San với Tô lịch thất tiên đâu"

Dã Tượng lột mũ chịu tội:

_ Cháu sơ ý, thành ra y trốn mất.

Vương ban chỉ:

_ Chúng ta ra sân.

Sân Khu mật viện khá lớn. Trước sân trái, Long Vân cùng cả triều đình của y bị trói ngồi cúi gầm mặt xuống. Bên phải bọn Hát San cùng Tô lịch thất tiên cũng bị trói.

Dã Tượng kinh ngạc:

_ Ai đã bắt bọn này"

Vũ Uy vương chỉ Đại đởm Thập tam kiệt:

_ Còn ai vào đấy nữa"

Thúy Hồng thấy trong đám người bị trói có cả sư A Hàm La, nàng đến trước Vũ Uy vương, vương phi quỳ gối rập đầu binh binh tay chỉ vào sư:

_ Vương gia! Vị này là một đại hòa thượng người Tây tạng. Tây tạng bị Mông cổ chiếm, ngài có hạnh nguyện sang phương Đông hoằng dương đạo pháp, nên đi nhờ thuyền của bọn Hat San. Ngài là sư phụ của Thúy Hồng. Vương gia không nên hành tội ngài.

Vũ Uy vương phi đỡ Thúy Hồng dậy. Còn vương thân cởi trói cho sư, tay chắp:

_ A Di đà Phật. Chúng tôi đều là Phật tử. Duyên may đại sư giá lâm Đại Việt. Chúng tôi kính thỉnh đại sư về Thăng long thuyết pháp.

Đại sư Huệ Đăng đến trước sư A Hàm La hành lễ. Vương đưa mắt cho Thúy Hồng mời sư vào điện Kinh dương, cử người phục thị.

Vương hỏi Đại đởm thượng tướng quân Nguyễn Thiên Sanh:

_ Tướng quân bắt bọn này như thế nào"

Nguyễn Thiên Sanh cáo với vương:

“ Khi Dã Tượng, Địa Lô, Cao Mang, Thúy Hồng lên khỏi con thuyền. Nàng Thanh Hoa gọi Hát San hạ lệnh:

_ Chúng nó đi hết rồi. Đạo sư mau cho thuyền nhổ neo trở lại Kim sa giang, chúng ta đi Độ khẩu gấp. Chúng quay trở lại có đuổi theo chúng ta cũng không kịp.

Hat San hô thủy thủ dương buồm, ngươi người ngồi vào mái chèo, chèo khẩn cấp. Thuyền đi nhanh vùn vụt. Được khoảng 10 dặm thì thấy một đoàn kị mã 13 người phi ngược chiều từ phía thượng lưu. Phía hạ lưu, một đoàn trâu đang lồng đuổi theo, trên lưng mỗi trâu là một thiếu nữ, lưng đeo đoản đao.

Đoàn 13 kị mã đều dương cung, buông tên. Các dây buồm bị đứt hết. Thuyền quay ngang. Mũi ủi vào bờ.

Nữ tướng trâu hỏi người chỉ huy 13 kị mã:

_ Anh Sanh! Anh hay thực.

Mười ba kị mã bỏ ngựa nhảy xuống thuyền. Bọn thủy thủ chưa kịp phản ứng thì đã bị kiềm chế.

Hat San hỏi:

_ Các người là kị binh nào" Kị binh Tống, hay Mông cổ"

Người cầm đầu kị mã quát:

_ Mộ Hợp Mễ An Hat San. Người từng ở Đại Việt, chắc người có nghe danh Đại đởm thập tam kiệt chứ"

Hat San tỉnh ngộ:

_ Thì ra tướng quân là Nguyễn Thiên Sanh đấy!

_ Đúng vậy.

_ Tướng quân ơi! Xin tướng quân tha cho bọn tôi. Tôi sẽ tạ tướng quân một ngàn lượng vàng.

Tên Trịnh Long thấy Nguyễn Thiên Sanh mải nói, y rút dao đâm vào lưng Sanh. Nhưng Sanh mặc áo giáp, dao đâm trúng lưng kêu lên một tiếng chát. Sanh giật mình tung vào ngực y một cước. Tên Trịnh Long bay ra xa, quằn quại mấy cái rồi nằm im. Tên Trịnh Ngọc chạy lại đỡ con dậy, thì chỉ còn thấy mắt tên Trịnh Long trợn ngược. Ngực bị trấn động. Mụ Mỹ Liên tu lên khóc :

_ Oái con ơi ! Con chết thảm thế này đây.

Thiên Sanh thấy tên Long mắt mở thao láo thì cười :

_ Nó chưa chết đâu.

Mụ rút kiếm lao tới tấn công Thiên Sanh trả thù cho con. Nhưng mụ bị các dũng sĩ Đại đởm bao vây, chỉ ba hiệp mụ bi bắt sống.

Thiên Sanh ra lệnh khám thuyền, trói Hat San cùng thuyền phu lại, dẫn giải lên bờ . Một dũng sĩ Đại đởm hỏi :

_ Anh Sanh, trong thuyền còn 7 cô gái, các cô xưng là vương phi, là đại phu nhân Đại Việt. Bọn em không dám lùa các cô ra. Xin anh phát lạc.

_ Lùa lên bờ như bọn thuyền phu.

Ngay từ tuổi 15, nổi tiếng tài sắc nhất Thăng long, Tô lịch thất tiên luôn nhận được người đời chiều chuộng, trân trọng. Mấy năm sau, các nàng tổ chức tuyển phu, chỉ một sáng một chiều, trở thành vương phi, đại phu nhân, luôn được người xung quanh kính trọng, hầu hạ. Ngay cả lúc bị Mông cổ bắt, cũng vẫn được nâng niu.

Đây là lần đầu tiên các nàng bị đối xử bằng vũ lực. Vốn hách dịch đã quen, các nàng uất ức khóc rấm rức. Hồng Hoa hỏi Nguyễn Thiên Sanh :

_ Người có phải là Đại đởm thượng tướng quân không "

_ Đúng vậy.

_ Tướng quân có phải là người dưới quyền của Vũ kị thượng tướng quân không "

_ Đúng vậy.

_ Tướng quân có biết tôi là phu nhân của Vũ kị thượng tướng quân Lý Tùng Bách không "

_ Biết ! Biết từ mấy năm trước rồi.

_ Tôi hỏi tướng quân : tôi phạm tội gì mà tướng quân lùa tôi như lùa vịt thế này "

Nói rồi Hồng Hoa chỉ từng người trong Thất tiên giới thiệu với Thiên Sanh. Thiên Sanh đưa mắt hỏi Lê Linh Anh :

_ Hĩm Còi ! Anh là đàn ông thô lỗ. Em giải quyết vụ này dùm anh.

Linh Anh mỉm cười :

_ Để đấy cho em.

Nàng hất hàm chỉ Hồng Hoa ra lệnh :

_ Đúng ra thì chúng ta chỉ lùa các người như lùa vịt thôi. Nhưng mụ này hách dịch quá, ta phải áp dụng quân luật. Trói mụ lại.

Nữ Ngưu binh trói Hồng Hoa.

Hồng Hoa hỏi :

_ Ta phạm tội gì mà bọn mục đồng các người trói ta "

_ Tội nằm ngửa, dâng trôn cho quốc tặc.

Linh Anh chỉ Hoàng Hoa, Thanh Hoa hỏi :

_ Hai mụ này là ai"

Hai nàng Hoàng, Thanh Hoa tưởng Linh Anh cũng dễ bắt nạt như Thiên Sanh, nàng hách dịch:

_ Là phu nhân của Vũ sơn hầu Tạ Quốc Ninh và Tham tri bộ Lễ ChuBác Lãm.

Linh Anh ra lệnh.

_ Trói.

Hai nữ Ngưu binh túm lấy Hoàng, Thanh Hoa, bẻ quặt tay ra sau trói lại. Tiếp tục, Linh Anh ra lệnh trói tất cả Thất tiên.

Thanh Hoa nổi giận:

_ Bọn mục đồng thô lỗ kia. So với phu quân của chúng ta, bọn mi chỉ là tiểu tốt, nhỏ như con kiến, chưa đáng giặt váy cho bọn ta. Thế mà bọn bay dám trói ta ư" Được chúng ta sẽ nói với phu quân chúng ta chặt những cái đầu rẻ như củ chuối của các người, ném xuống sông cho cá rỉa.

Linh Anh điểm mặt mặt các tiên:

_ Các mụ tự thị làm chủ tấm nhan sắc nghiêng nước ư" Các mụ tự thị cầm ca nhất Đại Việt ư" Những cái đó chỉ có giá trị với đàn ông đa tình. Còn đối với bọn mục đồng như chúng ta, chúng ta biết các mụ là bọn chuyên nằm ngửa, bán trôn cho thiên hạ mà thôi. Bây giờ chúng ta đang đuổi giặc, bắt được các mụ đang chạy trốn với giặc, chúng ta không chặt đầu là may rồi.

Vẫn chưa hả giận, Linh Anh tiếp

_ Các mụ tự thị là phu nhân của thân vương, đại tướng quân, hầu tước, rồi lên mặt hách dịch với bọn mục đồng này ư" Ta hỏi các người câu này nhé: các người có biết rằng tướng ngoài mặt trận được toàn quyền xử tử tội nhân không" Các người có biết ta là Ngưu tướng không"

Thanh Hoa vẫn không chịu thua:

_ Bọn mục đồng hôi thối kia! Các người có gan thì giết chúng ta đi.

Linh Anh rút con dao đeo ngang hông:

_ Được, đễ quá! Con Hĩm Còi này không giết các mụ đâu. Nó chỉ rạch trên mặt mỗi mụ hình con chó đang chổng mông ỉa, rồi bôi vôi lên cho thành sẹo. Bấy giờ các mụ sẽ ba phần giống người, bẩy phần giống quỷ. Sau đó nó đưa các mụ về Thăng long, dẫn đi khắp phố phường rao: ai coi Tô lịch bẩy chó ỉa ra xem này. Dân chúng sẽ chỉ chỏ: Oâi trên đời sao lại có bẩy mụ chó ỉa thế kia. Liệu phu quân các người có còn sủng ái các mụ nữa không"

Nói rồi Linh Anh sẽ đưa con dao quét qua má Thanh Hoa. Thanh Hoa rú lên kinh hoàng. Trong nhất thời bẩy nàng Tô lịch tự nhủ:

_ Mình có đẹp là đẹp với bọn đàn ông. Chứ đối với bọn mục đồng này thì chúng chỉ biết xua trâu đánh giặc. Nhan sắc, cầm ca vô dụng với chúng. Thôi đành nín nhịn cho qua”.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sky River Casino vô cùng vui mừng hào hứng tổ chức chương trình Ăn Tết Nguyên Đán với những giải thưởng thật lớn cho các hội viên Sky River Rewards. Chúng tôi cũng xin kính chúc tất cả Quý Vị được nhiều may mắn và một Năm Giáp Thìn thịnh vượng! Trong dịp đón mừng Năm Mới Âm Lịch năm nay, 'Đội Múa Rồng và Lân Bạch Hạc Leung's White Crane Dragon and Lion Dance Association' đã thực hiện một buổi biểu diễn Múa Lân hào hứng tuyệt vời ở Sky River Casino vào lúc 11:00 AM ngày 11 Tháng Hai. Mọi người tin tưởng rằng những ai tới xem múa lân sẽ được hưởng hạnh vận.
Theo một nghiên cứu mới, có hơn một nửa số hồ lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do biến đổi khí hậu, làm gia tăng mối lo ngại về nước cho nông nghiệp, thủy điện và nhu cầu của con người, theo trang Reuters đưa tin vào 8 tháng 5 năm 2023.
(Tin VOA) - Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 13/9 ra thông cáo lên án Việt Nam tiếp tục lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt những án tù nặng nề với mục tiêu loại trừ mọi tiếng nói chỉ trích của giới ký giả. Trường hợp nhà báo tự do mới nhất bị kết án là ông Lê Anh Hùng với bản án năm năm tù. RSF bày tỏ nỗi kinh sợ về bản án đưa ra trong một phiên tòa thầm lặng xét xử ông Lê Anh Hùng hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua. Ông này bị kết án với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Từ đầu tuần đến nay, cuộc tấn công thần tốc của Ukraine ở phía đông bắc đã khiến quân Nga phải rút lui trong hỗn loạn và mở rộng chiến trường thêm hàng trăm dặm, lấy lại một phần lãnh thổ khu vực đông bắc Kharkiv, quân đội Ukraine giờ đây đã có được vị thế để thực hiện tấn công vào Donbas, lãnh phổ phía đông gồm các vùng công nghiệp mà tổng thống Nga Putin coi là trọng tâm trong cuộc chiến của mình.
Tuần qua, Nước Mỹ chính thức đưa giới tính thứ ba vào thẻ thông hành. Công dân Hoa Kỳ giờ đây có thể chọn đánh dấu giới tính trên sổ thông hành là M (nam), F (nữ) hay X (giới tính khác).
Sau hành động phản đối quả cảm của cô trên truyền hình Nga, nữ phóng viên (nhà báo) Marina Ovsyannikova đã kêu gọi đồng hương của cô hãy đứng lên chống lại cuộc xâm lược Ukraine. Ovsyannikova cho biết trong một cuộc phỏng vấn với "kênh truyền hình Mỹ ABC" hôm Chủ nhật: “Đây là những thời điểm rất đen tối và rất khó khăn và bất kỳ ai có lập trường công dân và muốn lập trường đó được lắng nghe cần phải nói lên tiếng nói của họ”.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cử hành Ngày Quốc tế Nhân Quyền Lần Thứ 73 và Lễ Trao Giải Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 20.
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.