Hôm nay,  

Phạm Công Thiện và đỉnh lặng

15/03/201100:00:00(Xem: 6549)

Phạm Công Thiện và đỉnh lặng

Trịnh Thanh Thủy

(...với một nén hương lòng)

Sáng nay tôi nhận được một điện thư báo tin Phạm Công Thiện đã mất. Lòng tôi bỗng dấy nên một nỗi chơi vơi, hụt hẫng nào đó. Nghe như mình vừa mất đi một vật gì quý báu. Tôi tự nhủ “Ông đi nhanh thế sao"”. Dường như tôi vẫn thấy ông ở đâu đó. Dù lần đầu gặp ông cũng là lần cuối cách đây hai năm ở chùa Viên Thông, trong một buổi giảng pháp nhân dịp Vu Lan. Cái khoảng cách thời gian ấy như con sông cạn, thâu ngắn ký ức tôi. Tôi tưởng như còn thấy cặp kính trắng và giọng nói nào vang âm chừng mực, vừa đọc vừa giảng OM MANI PADME HUM(Châu báu trong hoa sen).

“Ngài Quán Thế Âm Đại Bồ Tát lúc nào cũng có mặt mỗi lúc chúng ta tha thiết kêu gọi danh hiệu Ngài hoặc mỗi lúc chúng ta trì đại thần chú OM MANI PADME HUM. Đức Phật Thích Ca hãy còn hóa thân thị hiện là Bồ Tát, nhưng trong giây phút hiện tại này Quán Thế Âm vẫn linh hiện liên tục cho đến lúc nào chúng sinh vẫn còn đau khổ, vẫn còn bị trói buộc trong bao nhiêu sợ hãi khổ nạn .... Chỉ Xưng danh Quán thế Âm Bồ Tát một lần; Chỉ nhớ tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát một lần; Chỉ nói OM MANI PADME HUM một lần Thì Hạt Giống Nẩy Mầm thành ra cả đại ngàn bông trắng, cả vô số vô lượng bông sen đủ màu ở cõi Cực Lạc.”......

(Trích “Bài giảng của giáo sư PCThiện ngày 1tháng 11, 2009 tại chùa Viên Thông”)

Những lời giảng của ông đẹp như cánh bướm, bay lượn trong trí tôi nở ra vô vàn đóa cẩm chướng trắng, lác đác những hạt mầm. Mani là biểu hiện của con đường đến thân thể hư không, Padme là biểu hiện của con đường dẫn đến trí tuệ tịnh quang.Ôi những câu thần chú chữ phạn, là con đường dẫn tới trí tuệ tịnh quang (clear light) hợp nhất với thân thể hư không (illusory body).

Ông giảng Mật Tông mà như đang đọc thơ. Lời niệm Quán Thế Âm làm toả sáng đức Lục-Ngọc-Quang Quan Âm (Green Tara), Bạch-Ngọc-Quang Quan Âm (White Tara), Hồng-Ngọc-Quang Âm (Red Tara). Những Quan Âm chập chờn màu sắc như áo lụa cô gái áo vàng quẩn quanh trong trí Phạm Công Thiện năm nào, ngày ông vào tịnh thất. Mỗi lần nghĩ tới ông tôi lại nhớ tới đoạn văn kể chuyện của Nguyên Sa trong Bài Tựa Riêng viết cho Văn năm 1985, số 38:

“Mười mấy năm trước, thi sĩ họ Phạm đã vào tịnh thất một lần, bạn ta ở đó được hai năm cho đến một buổi chiều, tiếng cười của thiếu nữ nào vọng lên từ sân chùa, thi sĩ động tâm, hé cửa nhìn xuống, tịnh thất khép lại phía sau.”

Mười mấy năm sau, ông lại diện bích ba năm, ba tháng, ba ngày. Ông tách biệt khỏi thế gian, không nhìn, không nói, không đập phá, say sưa, nổi loạn, không khật khưởng, sân si. Ông trầm mình trong cõi lặng đến nỗi Nguyên Sa nhờ Thượng Toạ Thích Mãn Giác(quá cố) đưa dùm một bài thơ”Nói chuyện phải quấy với Phạm Công Thiện” qua khe cửa

Người vào tịnh thất sống ba năm

Cất tiếng không lời để nói năng

Buổi sáng thinh không, chiều tới chậm

Tiền kiếp chen vô cạnh chỗ nằm

..............

Bao nhiêu năm sống Phạm Công Thiện đã sôi nổi cùng bè bạn, rong chơi đủ đầy từ cực đoan này sang cực đoạn khác. Ông dạy học, làm thơ và vẫy vùng trong những vũng tư tưởng, hố thẳm không đáy của Sartre, Rimbaud, Henry Miller, Duras, Eliot, Williams..

Bấy nhiêu năm ông đã nhiều lần lặng yên thiền tĩnh tâm ở chùa, ở mật thất, ở Houston, ở thành phố mà ông gọi đùa là Mất Thiên Thần(Los(t) Angeles). Ông quán tưởng Mật tông, quán tưởng Tara xanh, trắng, đỏ và phóng tâm trí lên phủ cả bầu trời một cái hĩm đàn bà vĩ đại bao trùm cả càn khôn vạn đại và thiên thu đại kiếp để nghe tiếng cười của các vị bồ tát. Tôi không biết trong tiếng ngọc lưu ly trong veo ấy, ông có nghe được tiếng cười của người con gái hoa cúc động tâm ông năm xưa không" Không biết trong cuộc lang thang suốt đêm dài trên quả đất ông có quên được hình bóng người con gái trăng rằm Tây Dương của Duras mà ông tưởng tượng không"

Còn bao nhiêu tiếng tâm động ở lồng ngực phì nhiêu bao la ấy hở ông"

“tiếng ho của cô nường, tiếng đập tim, tiếng lá cây phong reo, tiếng Địa Trung Hải, tiếng Đại Tây Dương, tiếng Thái Bình Dương, tiếng trùng dương, tiếng sông Garonne, tiếng sông Lot, tiếng sông Seine, tiếng sông Isère, tiếng sông Isar, tiếng sông Danube, tiếng sông Nhị Hà, tiếng sông Hương, tiếng sông Cửu Long, tiếng yêu, tiếng em, tiếng thương, tiếng nhớ, tiếng Hoài, tiếng Hương, tiếng Nga, tiếng Phượng, tiếng Chinh, tiếng Khánh, tiếng Dung, tiếng Ly, tiếng Nguyệt, tiếng Thu, tiếng Ngọc, tiếng Cầm, tiếng Uyên, tiếng My, tiếng Véronique, tiếng Françoise, tiếng Isabelle, tiếng Agnes, tiếng Laura, tiếng Dương Quý Phi, tiếng nường Thái trắng, Thái đen”

(Trích “Khi chiều tới gió reo trên rừng lá phong”).

Tôi thích nhìn ông dưới mắt nhìn thi sĩ, dưới những cơn địa chấn đầy sân si của con người trần tục hơn. Ngay từ thuở còn thanh niên, cái động trong bản ngã ông hiện diện cùng khắp. Nó cho ra đời một “Ngày sanh của rắn”. Trong tập thơ đầu làm động một thế hệ, cái tôi của ông lao xao trong suốt tập thơ.

“tôi đứng trên đồi mây trổ bông, tôi nằm cho rã chiếu cạp điều, tôi chấp chới, tôi bay trên biển, tôi đi đông chìm, tôi về, tôi hiện, tôi nhớ một lần cây quế mọ, tôi mửa máu đen, tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng, tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người, tôi nuốt nọc đen, tôi mặc, tôi gọi hương và tôi chết giấc, tôi chạy, tôi long đong, tôi nghe, tôi ca hát, tôi nuốt, tôi đau , tôi yêu, tôi cúi đầu trong hầm cà phê, tôi thấy việt nam ngang tàng, tôi không nghe...” .

(Trích “Ngày sanh của rắn”)

Phạm Công Thiện trong mắt nhìn Mai Thảo là một ồn động không bút nào tả xiết. Ông là một thiên tài say hùng dũng dơ cao cánh tay, tự dành những lời châu ngọc nhất về tài năng xuất chúng, về tâm thức cự phách khơi khơi riêng tặng cho mình. Ông tôn vinh chính ông là nhà thơ lớn nhất thế giới, lẫy lừng hoàn vũ, Sartre, Camus cho đi quét đường hết. Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm là những tên nào vậy, tao liệng vào sọt rác hết cả thảy Chinh Phụ Ngâm, Đoạn Trường Tân Thanh. Vì thế sau này, khi một người bạn gọi tôi để giới thiệu tôi với ông qua một buổi điện đàm. Tôi cũng không ngạc nhiên khi nghe qua đầu dây tiếng ông vang vang hỏi bạn tôi “Trịnh Thanh Thủy là đứa nào đó"”.

Ngoài những ồn ã tếu nghịch ngông cuồng, bất cần đời trong những huyên náo bè bạn, các cơn “động” địa chấn lớn trong thơ ông phát nổ, phát sáng và cháy cả “em”, tiêu cả thinh không, làm chết thiên tài, làm tỉnh cơn mộng dài sau tiếng đại hồng chung.

Về đi thôi rắn cắn Đại Không

Phù chú bay rợp cả Phương Đông

Phương trượng bay ai vừa tỉnh mộng

An Ma ni bát di hồng!

Om mané padmé hum!

Om ah Hum! On Ah Hum!

*

Sấm vừa nổ cháy cả thinh không

Gió mùa xưa nổi đoá sen hồng

Hắt hiu em chết bên kè đá

Anh vụt hiện về trên biển đông.

..............

(Trích “Thơ sấm kè đá quán tự tại”).1985

Trong chúng ta, ai cũng biết khi một sự thân yêu mất đi, không có sự thân yêu nào thay thế được. Có phải chúng ta vừa mất đi một tiếng cười sảng khoái, một hơi thở thơ ca ngất ngây, một đóa sen thiện tâm kỳ thú hay một con rắn Nam phương" Chúng ta đã có một nhà tư tưởng, dịch giả, giáo sư, đại đức, cư sĩ, nhà thơ, nhà văn mà đôi lúc bút pháp của ông, tôi nghe chừng như đang vẽ lên màu hồng sắc tía đủ hình dạng của một bức tranh lắp ghép (collage).

“Giấc nồng nặc, rượu vàng đêm hai mươi chín tết. Đường hẻm khu xóm tuổi nhỏ. Đường lót gạch rong rêu, vách tường ai vẽ hình tục tĩu. Tuổi dậy thì tọc mạch. Linh thiêng đâu đó sân khấu cải lương, lựu đạn nổ, máu chảy, người chạy mất. Đương đầu với những tử thi, cây đa, bến cũ, đường xe lửa bị giựt mìn... Hồi quang, phản ảnh vài chục kiếp người, thời gian, tiếng xôn xao và nước chảy. Lùng bắt đôi ba câu huyễn mộng, thực thế thì chỉ có thế. Thế thì thôi, gió nước. Cô phong độc tú, không gian trong gian phòng, không gian trong thời gian, thời giờ........”

Trích “Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất”

Tôi có vài người bạn tỏ ý không hiểu ông nói gì trong thơ. Họ bảo thơ ông như bùa chú, nó chập chùng những con chữ, âm điệu nhịp nhàng nhưng nó cũng mù mù sương ẩn. Thơ ông thường dài như loại trường ca:

Mùi con gái hươu nai bộ lạc

Những con lạc đà âm thầm chở kinh băng qua sỏi đá

Cù Lao Rồng ngày tháng phôi pha

Hà Hương trôi đi Hà Hương ở lại

Tên một người con gái tương lai

Không hề gặp trong đời

................

Hương Hà ta ra bên sông chơi

Thời oanh liệt thơ bay rợp miễu

Mai Thảo buồn sát na phiếu diễu

Nghiêm Xuân Hồng đan dệt quang minh lướt đỉnh tịch liêu

Ngày xưa thi sĩ thả diều

Trích “Trường ca cù lao rồng”.1985

Bảy mươi mốt năm ngang tàng như gió lộng, cháy hừng hực tựa lửa dung nham, đi về như sao băng cùng trời cuối đất. Ông lúc nhập thất, lúc chân nam đá chân xiêu say ngất ngây, khi phát ngôn bừa bãi gây sự với mọi người như lời kể của Mai Thảo. Ông đã đi trong thế giới hàng ngàn tiếng động, để tâm chao theo từng sát na nhiễu nhương cuộc đời. Ông đã ngồi thiền nghe chim hót quanh mình, nghe thân động, tâm động, tình yêu động. Nhưng phút cuối trên tất cả đỉnh cao là lặng yên, ông đã yên lặng đời đời.

Trịnh Thanh Thủy

Tháng Ba, 2011

* Những chữ in nghiêng là những trích dẫn của Phạm Công Thiện và các nhà văn khác.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.