Hôm nay,  

Sống Cho Mình Và Sống Cho Nhau

08/08/201000:00:00(Xem: 10180)

Sống Cho Mình và Sống Cho Nhau

Đoàn Thanh Liêm
(Riêng tặng các bạn thiện nguyện viên ở miền ven đô Saigon năm xưa.)
Vào năm 1937, nhà văn Lâm Ngữ Đường của Trung Hoa có cho xuất bản một cuốn sách nguyên tác tiếng Anh với nhan đề là “The Importance of Living “ (by Lin Yutang). Cuốn sách được nhiều người đánh giá cao và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bản tiếng Việt do học giả Nguyễn Hiến Lê thực hiện bằng lối lược dịch, cũng đã ra mặt độc giả tại miền Nam Việt nam vào thập niên 1960, với nhan đề chỉ có hai chữ thật ngắn gọn là “Sống Đẹp.” Cuốn sách này trình bày chủ yếu về lối sống thanh thoát, nhàn nhã của người sĩ phu quân tử trong xã hội truyền thống ở Trung quốc. Dù đã ra mắt công chúng đến trên 70 năm nay, cuốn sách này vẫn còn giá trị lôi cuốn được nhiều người tại khắp nơi trên thế giới, đặc biệt tại những nước văn minh vật chất quá phát triển, đến độ con người bị mê hoặc với những tham vọng và hưởng thụ cầu kỳ, phù phiếm quá đáng, mà quên đi cái lối sống nhẹ nhàng, đơn sơ và đạo hạnh nhân ái của người xưa.
Nhà văn họ Lâm có lối ví von thật dí dỏm ngộ nghĩnh, mà tôi cứ nhớ hoài. Đó là: “Thời gian hữu dụng bởi vì nó không phải dùng đến (Time is useful because it is not being used). Sự nhàn rỗi (leisure) cũng giống như khoảng không gian mà không bị chiếm cứ (unoccupied floor space) trong một căn phòng… Chính cái khoảng không gian trống không này mới làm cho căn phòng có thể ở được, cũng tựa như những giờ phút nhàn rỗi mới làm cho cuộc sống chúng ta có thể chịu đựng được (endurable)…” Người khôn ngoan thì không bao giờ lại bận rộn, và người quá bận rộn thì không thể là người khôn ngoan được (Those who are wise won’t be busy, and those who are too busy can’t be wise).
Nhưng bài viết này không nhằm giới thiệu về cuốn sách thời danh đó, quý bạn đọc có thể tìm lại cuốn sách này trong các thư viện, và nhất là trên internet một cách dễ dàng, mà lại có thêm được nhiều thông tin mới lạ, cập nhật liên quan đến đề tài rất là quan trọng này. Ở đây, tôi chỉ muốn chia sẻ với các bạn đọc một số suy nghĩ của bản thân mình thông qua những trải nghiệm đã trên 70 năm sinh sống trong một xã hội đày biến động với chiến tranh tàn khốc ở Việt nam, cũng như tại nước Mỹ với nhiều khủng hoảng, xáo trộn bất ổn hiện nay.
Như nhan đề đã có thể gợi ra cho người đọc, tôi xin bắt đầu nói về chuyện “Sống cho Mình”, tức là mỗi người phải lo cho bản thân của mình trước đã, rồi sau đó mới có thể lo lắng chăm sóc cho người khác được. Trong tiếng Pháp có câu nói rất gọn : “Chacun pour soi. Dieu pour tous”, tức là “Mỗi người phải lo chăm sóc cho chính bản thân mình. Chỉ có Chúa Trời thì mới có thể lo lắng cho tất cả mọi người mà thôi.”  Mỗi một con người đến tuổi trưởng thành, thì đều có một cuộc sống riêng tư, một cá tính, một thân phận, một định mệnh riêng biệt do chính mình chịu trách nhiệm làm chủ, chứ không thể nào mà cậy nhờ vào một ai khác, dù đó là người thân thiết nhất như cha mẹ, vợ chồng, hay anh chị em ruột thịt, để họ sống thay thế cho mình được.
Vào lứa tuổi đôi mươi, lúc còn là một sinh viên đại học ở Saigon, thì tôi rất tâm đắc với cái môn triết học hiện sinh (Existentialisme) do các triết gia Jean Paul Sartre, Albert Camus, Gabriel Marcel của Pháp rao giảng. Nó thật hấp dẫn lôi cuốn lớp trẻ chúng tôi với những quan niệm cởi mở, phóng khoáng đề cao sự tự do lựa chọn của mỗi cá nhân (liberte de choix). Tôi rất thích cái lối định nghĩa trong triết học hiện sinh : “ Cuộc sống là một dự phóng (un projet) của mỗi con người lăn xả vào trong cái không gian xã hội bao la, khoảng khoát đến vô biên đó…” Các triết gia này còn phân biệt rành rẽ  : “ hữu thể tự thân” (être-en-soi) thì khác với “hữu thể vị ngã” (être- pour- soi), rồi đến “hữu thể vị tha” (être-pour- autrui).


Nói chung, thì thời kỳ sau thế chiến thứ hai, trong thế hệ thanh niên sinh viên khắp nơi trên thế giới, đã có sự bùng nổ mạnh mẽ trong nhận thức về vị thế và vai trò của con người trong xã hội. Nhưng cũng có sự lạm dụng quá đáng về sự tự do vô giới hạn, đến nỗi nhiều người đâm ra sống buông thả, phóng túng, tự cho mình được quyền vượt ra ngoài khuôn khổ đạo đức luân lý thông thường. Mà họ cũng không có được cái ý thức trách nhiệm liên đới xã hội của tầng lớp thiểu số được ưu đãi đối với đa số lớp người bị ngược đãi, bị bóc lột, bị khinh miệt bỏ rơi. Tôi thật nhớ lời cảnh giác của linh mục Alexis Cras có tên Việt nam là Đỗ Minh Vọng, chuyên dậy môn triết học; ông nói thẳng thừng như đinh đóng cột rằng: “Jean-Paul Sartre là kẻ làm sa đọa giới thanh niên.” ( Sartre, le dépravateur de la jeunesse!)
Cũng vào thời gian đó, thì tôi lại được tiếp cận với một lô sách báo, tài liệu của Nhóm “Kinh tế và Nhân bản” (Economie et Humanisme) có trụ sở ở thành phố Lyon bên Pháp. Nhóm này chủ trương kêu gọi : “Phải thực hiện một sự phát triển toàn diện và điều hòa” (Developpement total et harmonise), chứ không chỉ có chăm lo xây dựng riêng về mặt vật chất kinh tế, mà sao lãng không chú trọng gì đến các khía cạnh văn hóa xã hội, và đạo đức tâm linh khác. Họ nêu khẩu hiệu: ”Phát triển toàn diện mỗi người và tất cả mọi người” (developpement de tout homme et de tous les hommes). Tôi thật say mê tâm đắc với cái chủ trương nhân bản và nhân ái này, mà tôi thấy nó cũng tương tự như lời giáo huấn của cha ông ta ngày xưa theo mẫu mực truyền thống của người trượng phu quân tử, vốn luôn đòi hỏi tầng lớp được ưu đãi hơn, thì phải ra sức hy sinh lo lắng chăm sóc cho bà con kém may mắn trong thôn xã của mình. Đó là trách nhiệm liên đới, gắn bó thân thương với nhau của mọi thành viên trong một cộng đồng xã hội. Nói cho ngắn gọn hơn, thì đó là cái lối “Sống cho Nhau”, mà nhân gian vẫn thường đề cao với cái chuyện “Ân Nghĩa ở Đời” vậy.
Đến năm 1960-61, tôi được đi du học tu nghiệp ở Mỹ, thì ngoài chuyện học tập về chuyên môn, tôi lại có dịp quan sát cái lề lối tổ chức sinh hoạt của xã hội tại hạ tầng cơ sở, nơi các thị trấn nhỏ xung quanh thủ đô Washington. Tôi đặc biệt cảm kích trước cái tinh thần hy sinh tự nguyện của người dân trong việc phục vụ công ích của tập thể cộng đồng, mà người Mỹ gọi là “Public Service”. Những điều tôi chứng kiến tại Mỹ hồi năm 1960-61 đó, thì y hệt như điều mà nhà xã hội học người Pháp là Alexis de Tocqueville đã mô tả thật chi tiết, rành mạch trong cuốn sách thời danh “De la Democratie en Amerique” (Nền Dân chủ tại nước Mỹ) xuất bản đã trên 100 năm trước tại nước Pháp, hồi cuối thập niên 1830. Nhờ đích thân được chứng kiến cái kinh nghiệm phát triển thực tế đó tại nước Mỹ, mà từ năm 1965, tôi đã cùng với một số bạn dấn thân hết mình vào công cuộc xây dựng xã hội với Chương trình Phát triển Cộng đồng tại các Quận 6,7 và 8 Saigon, như tôi đã có dịp trình bày chi tiết với quý bạn đọc trong mấy năm gần đây.
Thành ra, trong xã hội cổ truyền ở nước ta, cũng như trong xã hội Âu Mỹ hiện đại, tôi đều thấy là lúc nào và ở đâu, cũng đều có sẵn những người thật lòng hy sinh hết mình, để mà phục vụ cho tập thể cộng đồng, nơi bản thân và gia đình họ đang sinh sống. Chính vì có nhiều người biết “Sống cho Nhau” như thế đó, mà xã hội mới được an vui hạnh phúc nồng ấm, trong tinh thần tương thân tương trợ, bảo bọc lẫn cho nhau.
Và những điều tôi được học hỏi nơi trường ốc, sách vở, cũng như được chứng kiến trong thực tế ngoài xã hội như thế, nó đã giúp cho tôi luôn giữ được một thái độ lạc quan tin tưởng ở cuộc đời, cũng như ở sự lương hảo của con người, mặc cho những sóng gió đày đọa vì chiến tranh đẫm máu, vì hận thù bạo lực khắp nơi khắp chốn ngày nay vậy./
California, Tháng Tám 2010
Đoàn Thanh Liêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.