[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang được xuất bản năm 2004. Qúy độc giả muốn mua sách, xin vui lòng liên lạc ledinhho@hotmail.com]
Hỏi (Bà Trần Thị H): Con tôi nghiện ma túy tính đến nay cũng gần 6 năm, cháu đã từng đến nhiều trung tâm trị liệu để được giúp đỡ, nhưng cuối cùng cháu vẫn tánh nào tật đấy, không thể nào bỏ dứt được.
Cách đây gần 1 năm cháu có bị bắt và đưa ra tòa về tội sở hữu ma tuý, nhưng được tòa tha bổng, buộc cháu phải đến trung tân cai nghiện, và phải giữ gìn tánh hạnh 12 tháng. Cháu đã cố gắng làm theo những gì mà tòa đã buộc cháu phải làm. Tuy thế, cách đây khoảng 4 tuần lễ, cháu đã bị bắt và bị cáo buộc tội “on going supply of the prohibited drug”.
Cháu đã ra tòa 2 lần và vẫn không chịu nhận tội. Đơn xin tại ngoại của cháu đã bị từ chối. Hiện cháu đang bị giam giữ chờ ngày xét xử.
Chúng tôi có vào thăm cháu và biết được rằng cảnh sát chìm đã có tang chứng đầy đủ là cháu đã bán bạch phiến nhiều lần cho họ trong tháng qua. Cháu có thú thật rằng cháu không thể cai nghiện được, và cháu không có đủ tiền mua ma túy, nên cháu đã phải mua những tép nhỏ bạch phiến rồi bán lại một phần còn phần khác thì cháu giữ lại để xử dụng nhằm thỏa mãn cơn ghiền.
Xin LS cho biết là trong trường hợp vừa nêu cháu có bị kết tội hay không" Nếu bị kết tội thì hình phạt sẽ như thế nào"
*
Trả lời: Điều 25A(1) của “DDạo Luật Buôn Bán và Lạm Dụng Ma Túy” (Drug Misuse and Trafficking Act 1985) quy định rằng: “Người cung cấp loại thuốc (ma túy) bị nghiêm cấm [khác hơn là cần sa] nhằm thâu đạt lợi nhuận về tài chánh hoặc của cải vật chất, 3 lần riêng biệt hoặc nhiều hơn trong bất cứ thời gian 30 ngày liên tục nào, sẽ bị tội cung cấp ma túy trường kỳ. Hình phạt tối đa: 3,500 đơn vị tiền phạt [tương đương với $385,000.00] hoặc bị tù 20 năm, hoặc cả hai [hình phạt]” (A person who, on 3 or more separate occasions during any period of 30 consecutive days, supplies a prohibited drug [other than cannabis] for financial or material reward is guilty of an offence of supplying prohibited drugs on an ongoing basis. Maximum penalty: 3,500 penalties units or imprisonment for 20 years, or both).
Trong vụ Regina v Murphy [2006] NSWCCCA 417, bị cáo nhận tội buôn bán “ma túy trường kỳ” (ongoing supply of the prohibited drug). Trước khi nhận tội này bị cáo yêu cầu công tố viện rút lại sự truy tố chính thức về 9 tội trạng khác trong đó có 2 tội buôn bán ma túy trường kỳ.
Vào ngày 25.8.2006, tòa đã tuyên án bị cáo 2 năm tù và buộc bị cáo phải thụ hình tối thiểu là 15 tháng, tuy nhiên, bản án này đã được tòa đình hoãn vì bị cáo xin tòa được giữ gìn tánh hạnh cùng tuân theo những điều quy định của tòa.
Công tố viện bèn kháng án vì cho rằng phán quyết đó hoàn toàn không thích đáng. Đơn kháng án của công tố viện được quy định là sẽ thụ lý vào ngày 20.11.2006.
Trong lúc đó, bị cáo đã vi phạm vào nhiều điều kiện mà tòa đã quy định trong thời gian buộc bị cáo phải giữ gìn tánh hạnh.
Vào ngày 17.11.2006, tòa đã rút lại phán quyết buộc bị cáo giữ gìn tánh hạnh, vì thế bị cáo buộc phải thụ hình bản án tù mà tòa đã đình hoãn trước đó. Bị cáo bèn kháng án chống lại việc buộc phải thi hành bản án tù.
Mặc dần bị cáo đã bị bắt giữ và đang thụ hình, công tố viện vẫn tiếp tục tiến hành quyết định kháng án vì cho rằng bản án không thích đáng. Về phần bị cáo, thì cô ta đã xin kháng án để chống lại việc bỏ tù cô ta mặc dầu cô ta đồng ý rằng cô đã vi phạm nhiều điều kiện mà tòa đã quy định.
Vào lúc phạm tội bị cáo được 30 tuổi, cô ta chỉ có một vài án tích nhẹ, không bị ghi vào hồ sơ phạm tội. Cô được sinh ra và lớn lên tại vùng Wagga. Rời trường trung học sau khi hoàn tất lớp 9. Sau đó theo học khóa phục vụ trong ngành ăn uống tại TAFE.
“Cô có quan hệ với một người đàn ông, nhưng quan hệ này đã bị đổ vỡ do sự bạo hành trong gia đình và do việc ông ta bị tù. Rốt cuộc sự quan hệ này đã chấm dứt vào năm 2004” (She had a relationship with a man, which was marred by domestic violence and by his being imprisoned. The relationship finally came to an end in 2004).
Tuy nhiên, sự quan hệ đó đã để lại một đứa con trai, nay đã được 10 tuổi, và đang sống với bà ngoại tại Wagga. Cha của bị cáo bị bệnh nặng và qua đời vào năm 2004. Điều này đã ảnh hưởng đến cuộc đời của bị cáo. Hai tháng sau đó, bị cáo đã bị tai nạn xe hơi. Theo bản tường trình của bác sĩ tâm thần thì bị cáo thỉnh thoảng phải xử dụng amphetamine để làm giảm cơn đau. Đó là lý do đưa đẩy bị cáo quen biết “người đồng bị cáo của cô” (her co-offender), ông Baxter. Ông này là một người chuyên cung cấp ma túy.
Tội buôn bán ma túy trường kỳ mà cô ta đã phạm phải là do việc bán amphetamine 10 lần trong tháng 6.2005. Trong 8 lần đầu cô ta đã dùng điện thoại để sắp xếp việc giao hàng. Lần thứ 9 và lần thứ 10 xảy ra vào ngày 30.6 khi cô ta cùng ông Baxter giao hàng. Vì cô ta là đồi tượng đang bị cảnh sát theo dõi, nên hôm đó cô đã bán ma tuý cho một cảnh sát chìm. Cô đã bán 0.1gram amphetamine với giá $50 đô.
Trước khi tuyên án bị cáo, vị thẩm phán tọa xử đã xét đồng bị cáo Baxter, ông này cũng đã nhận tội, và đã bị tuyên án 6 năm tù. Vị thẩm phán tọa xử cho rằng bị cáo can dự vào hành vi hình sự này nhẹ hơn trường hợp của ông Baxter nhiều.
Tòa đồng ý rằng ngoài việc hỗ trợ cho ông Baxter trong việc buôn bán ma túy, “bị cáo cần kiếm tiền để mua amphetamine cho cô xử dụng” (the accused needs to finance her own use of amphetamine). Tòa cũng đồng ý rằng bị cáo không hề nhận được những mối lợi lớn trong việc buôn bán này.
Tòa giảm cho bị cáo 20% liên hệ đến việc cô ta nhận tội. Tòa nhận thấy bị cáo là người biết ăn năn. Tòa đồng ý rằng bị cáo là một người tốt trước khi gặp ông Baxter.
Công tố viện, đồng ý rằng vị thẩm phán tọa xử không áp dụng sai nguyên tắc, tuy nhiên, việc giảm 20% đối với sự nhận tội là quá nhiều trong trường hợp này, vì việc nhận tội chỉ xảy ra sau khi thương lượng.
Tòa Kháng Án Hình Sự đã bác đơn kháng án của bị cáo liên hệ đến vấn đề bị cáo chống lại việc buộc cô phải thụ hình khi cô vi phạm các điều khoản do tòa quy định. Vì bị cáo đã vi phạm các điều khoản do tòa quy định trong thời gian giữ gìn tánh hạnh nên cô ta đã bị bắt và buộc phải thi hành bản án tù. Vì bị cáo đang thụ hình nên Tòa đã bác bỏ các luận điểm của công tố viện liên hệ đến việc cho rằng bản án do tòa án vùng Wagga đưa ra là không thích đáng.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn bà có thể thấy được rằng “tội buôn bán ma túy trường kỳ” là một tội hình sự nghiêm trọng vì hình phạt tối đa dành cho tội trạng này là 20 năm tù.
Chúng tôi không thôi thúc cháu nhận tội trong trường hợp này, tuy nhiên, khi cảnh sát đã cáo buộc về các loại tội trạng này thì thông thường họ đã thâu thập đủ các chứng cớ phạm tội. Các chứng cớ này thường là do các nhân chứng, cảnh sát chìm, đưa ra. Vì thế, bà nên bàn lại với cháu để vấn đề không trở nên quá phức tạp hầu cháu được hưởng một hình phạt khoan hồng hơn.
Nếu bà còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp thêm.