LGT: Lịch sử nửa thế kỷ ngăn chặn làn sóng cộng sản bành trướng ở Miền Bắc, xâm lăng ở Miền Nam, đã tạo nên nhiều anh hùng, trong đó có không biết bao nhiêu anh hùng âm thầm, cô đơn, một mình một bóng, phải vật lộn giữa vòng vây đầy thù hận của kẻ thù, mà vẫn một lòng một dạ giữ tròn khí tiết cùng tấm lòng thuỷ chung đối với tổ quốc, dân tộc, đồng đội... Đặng Chí Bình, bút hiệu của một điệp viên VNCH được lệnh thâm nhập Miền Bắc, móc nối các tổ chức kháng chiến chống cộng, chẳng may lọt vào tay kẻ thù, và phải trải qua gần 20 năm trong lao tù cộng sản, là một trong những người anh hùng âm thầm, cô đơn trên con đường đấu tranh chống cộng sản đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng cao thượng và chan hoà lòng nhân ái, của dân tộc Việt Nam. Giống như tất cả những ai có lòng yêu nước, đã sống trong lao tù của cộng sản, đều âm thầm tự trao cho mình sứ mạng, tiếp tục chiến đấu chống lại cái tàn nhẫn bất nhân của chủ nghĩa cộng sản đến hơi thở cuối cùng, điệp viên Đặng Chí Bình, sau khi ra hải ngoại, đã tiếp tục miệt mài suốt 20 năm để hoàn thành thiên hồi ký Thép Đen dầy ngót 2000 trang, gói ghém tất cả những bi kịch phi nhân đầy rùng rợn trong chế độ lao tù cộng sản mà tác giả đã trải qua; đồng thời thắp sáng chân lý: Ngay cả trong những nơi tận cùng của tăm tối, phi nhân, đói khát, đầy thù hận nhất do chế độ cộng sản tạo dựng, tình yêu thương người, lòng hướng thiện, khát khao cái đẹp, tôn thờ chân lý vẫn luôn luôn hiện hữu và được ấp ủ, trong lòng người dân Việt. Nhận xét về thiên hồi ký Thép Đen, thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đã xúc động nhận xét: "Chúng ta đã được đọc khá nhiều hồi ký của những người cựu tù trong chế độ lao tù Cộng Sản. Mỗi cuốn hồi ký là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, "Thép Đen" là cuốn hồi ký trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Đặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được diễn tả chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy có mình trong đó." Nhân dịp tác giả Đặng Chí Bình đến Úc Châu, Sàigòn Times hân hạnh được ông chấp thuận cho phép đăng tải thiên hồi ký Thép Đen vô cùng hào hùng, sống động và đầy lôi cuốn của ông. SGT xin chân thành cảm ơn tấm lòng ưu ái đặc biệt của tác giả, và sau đây, xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả phần tiếp theo của thiên hồi ký Thép Đen.
*
(Tiếp theo...)
Trong lúc đi đổ bô cũng như lúc lấy cơm, trả bát, tôi đều phải cuốn trong người, bởi vì bất chợt cán bộ hay vào ngó buồng, đôi khi lục tung chăn chiếu khám xét, khi mình còn ở trong buồng tắm. Lúc bện thừng, tôi thường phải làm trong chăn, hoặc ngồi thế gập chân lên cùm, rồi quay phía trong sát góc, từ chỗ cửa con nhìn vào không thể nhìn thấy. Cửa con thường bất chợt mở chẳng có một quy luật nào. Hoặc, cán bộ có thể đứng bên ngoài rình nhìn vào mà không cần mở cửa con, theo một cái khe phía trên cửa nhỏ, để quan sát theo dõi được nửa buồng. Vì chưa quen đánh thừng, sau nhiều lần rút kinh nghiệm, cuối cùng, tôi đã có một chiếc dây dài 1 mét 40 phân, đánh loại thừng 3 sợi vặn rất săn, đường kính chừng 2 phân rưỡi, rất nhẵn nhụi bền chắc. Tôi luôn quấn trong người để hễ có thời cơ là thực hiện tiếp kế hoạch.
Trong thời gian này, có hai lần gọi tôi đi cung. Cũng truy hỏi, cũng dọa nạt, cũng nhử mồi. Nếu những tên chấp pháp tinh ý, sẽ thấy tôi không còn những nét lo âu, sợ sệt, hoặc băn khoăn đấu trí như mọi khi, và nếu chúng sờ vào bụng tôi, sẽ thấy một cái dây to tướng đang được quấn chặt ở trong quần.
Tôi còn gần một bao diêm, từ ngày nào Hà Tĩnh lấy đồ chôn, tên Thành mua cho, tôi vẫn giữ, hàng ngày tôi vẫn thỉnh thoảng lấy ra nhìn nhãn hiệu trên bao diêm, hình một anh công nhân đang cầm búa giơ lên cao, chẳng biết sẽ… nện vào cái gì" Tôi cũng thường lấy ra nhìn chiếc lược và bó tăm, trong đó vẫn còn “lõi” chì mật. Bây giờ, tâm tư của tôi lúc nào cũng như sắp giã từ cõi đời này. Tôi nhìn bất kỳ một cái gì cũng với ánh mắt vĩnh biệt, từ cái chăn, chiếc chiếu, cho đến đôi dép Thái Lan đã mòn, đứt một quai, cả chiếc lược sừng con duy nhất còn lại, khi còn ở Sài Gòn. Tôi cứ thường lấy những que diêm ra xếp thành chữ trên sàn: “DDặng Chí Bình chi mộ!” trong một cái khung hình chữ nhật cũng bằng que diêm, như mộ bia, rồi ngồi nhìn những chữ đó hàng giờ, với bao nhiêu nỗi đầy vơi của kiếp người.
Trong cái tắc tị của tinh thần, tôi suy nghĩ đến thuyết luân hồi của nhà Phật. Tôi nhắm mắt, hình dung mơ màng, khi tôi chết đi, kiếp sau biết đâu tôi chẳng là vị tướng tài ba chỉ huy một đoàn quân hàng chục vạn người, đập tan lũ cộng thù, giải phóng đồng bào miền Bắc mà kiếp này, tôi đã không làm được. Hoặc biết đâu, tôi lại đầu thai làm con, của một trong lũ Bộ Chính Trị miền Bắc, lớn lên, chính tôi sẽ là người đào mồ chôn cái chế độ, gọi là xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Nếu tôi đầu thai là một phụ nữ, tôi sẽ là một cô gái hiền dịu, tôi sẽ khôn khéo đem cái sắc đẹp của tôi để phục vụ Tổ Quốc, phục vụ nhân dân, góp phần tiêu diệt lũ cộng thù của dân tộc. Nếu không, ít ra tôi cũng có một lập trường rõ ràng, là chỉ yêu và lấy những ai một lòng thực sự vì dân vì nước, trong lúc quê hương dân tộc đang hồi lầm than nghiêng ngửa như lúc này. Chứ, dứt khoát tôi không lấy những loại chỉ suốt đời lao vào công việc, cũng như học hành, đạt những bằng cấp cao để cốt vinh thân phì gia, quên hết cả giống nòi. Loại này, nói đến quê hương, Tổ Quốc, chỉ nói ở cái lỗ miệng, còn thực tế lại chỉ lo tranh giành địa vị, nấp dưới những bình thường này nọ để xui người khác ăn cứt gà. Những loại đó, đừng hòng! Bởi vì, chính thái độ của người phụ nữ có tác dụng huyền diệu giáo dục và nâng cao tinh thần của nam nhi rất nhiều. Ngược lại, cũng do thái độ của nữ giới đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người trai. Họ chỉ biết lăn xả vào tìm tiền và danh vọng để phục vụ… phụ nữ.
Tôi cứ hình dung, tưởng tượng, đặt giả thuyết là tất cả những người Việt Nam thân yêu của chúng ta, từ gia đình đến học đường, cho đến ngoài xã hội, ngoài những vấn đề giáo dục học vấn, phải hun đúc những người thanh niên thấy rõ trách nhiệm với quê hương dân tộc, nhất là khi đất nước gặp cảnh lâm nguy, lầm than… và, riêng với nữ giới, ngay từ khi còn nhỏ trong gia đình cũng như trong học đường, đã được giáo dục uốn nắn, khích lệ để được trang bị một quan điểm, lập trường là chỉ yêu và lập gia đình với những thanh niên có lòng vì dân vì nước thực sự, đồng thời, phải biết khinh bỉ chán ghét những người thanh niên nào chỉ nghĩ đến mình, đến địa vị, đến phú quý giầu sang, dù quê hương tan tành, dù dân tộc có rên xiết thê lương. Mặt khác, ngoài xã hội, từ báo chí đến các phương tiện tuyên truyền, cũng như quan niệm trong quần chúng, bằng mọi khía cạnh, phải đề cao cổ vũ những người phụ nữ nào đó những hành động cao đẹp ấy, nêu lên những tấm gương chói sáng cụ thể bằng người thực, việc thực,v.v… một cách đích đáng. Nếu được như vậy, tôi dám hy vọng rằng, chỉ trong một hay hai thế hệ là cùng, lúc đó thanh niên Việt Nam sẽ không thiếu gì người tài, không thiếu gì người lăn xả vào hiểm nguy khi vận nước gặp hồi nước sôi, lửa bỏng; và ngày mai của dân tộc ta, sẽ không thiếu những gương anh dũng, quyết tử vì Tổ Quốc như Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Hoàng Thụy Năm, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ v.v… Thế giới lúc đó, khi nói đến Việt Nam, sẽ phải nói với thái độ như nói tới nước Nhật hay Do Thái vậy.
Hầu hết thế giới và chúng ta, khi nói tới dân tộc Nhật, thường chỉ chú ý tới tinh thần võ sĩ đạo của người Nhật là sẵn sàng chết cho quê hương, mà quên là người con gái Nhật đã góp phần chủ yếu để cho nhân dân Nhật có nét tự hào đó. Chúng ta, ai cũng thấy rất đơn giản là, một người vợ miệt mài ra sức làm cho người chồng một bữa ăn ngon, nếu người chồng biết ca ngợi, đề cao đích đáng, hãy tin đi, sẽ có và còn nhiều bữa ăn như thế, hoặc hơn thế nữa. Ngược lại, người chồng lại thờ ơ, không có một thái độ, hay một lời nói để khen ngợi bữa ăn đó, lần sau it khi có; nếu còn có, người làm cũng chỉ vì ở cái thế bắt buộc mà thôi…..
Óc tôi cứ chảy dài theo dòng suy tưởng vào một giấc mơ. Giấc mơ ấy, có lẽ cuối cùng cũng vẫn chỉ là… một giấc mơ!
Thân tôi hèn, chí tôi thiển; hơn nữa, vì hoàn cảnh bất hạnh đau thương của tôi, tôi đang muốn tìm đến cái chết để lìa bỏ cõi đời này. Chỉ mai kia, tôi đã về với cát bụi mây ngàn. Trước khi trở về lòng đất mẹ, tôi chỉ biết kêu gọi những bậc Cha Anh, những nhân vật lỗi lạc, những người giầu có, người góp công, người góp của, cùng chung một mục đích để làm những việc này một cách tận tâm, tận lực, lăn xả cho mục đích, giấc mơ đó sẽ hiện thực được, và sẽ trở thành truyền thống yêu nước quên mình của quảng đại nhân Việt Nam yêu dấu của chúng ta. Khi đó, hẳn là tôi không còn trên cõi đời này, nhưng, những uất khí không còn trong bộ xương nữa.
Tôi mở mắt ra, như bừng tỉnh một cơn mê để trở về với thực tại. Tôi xoay lại thế ngồi, nhìn lên cửa sổ phía sau, từ mặt sàn xi măng đến mép dưới của cửa sổ cao độ 1 mét 50 phân. Bức tường dày 50 phân. Một hàng song sắt to tướng ở giữa, ngăn đôi cái độ dày của bức tường, phía trong 15 phân, phía ngoài 35 phân. Một lượt lưới thép ép sát phía trong song sắt. Lưỡi thép đan thành những lỗ hở vuông mỗi bề 3 phân.
Tôi xoay lại thế ngồi khác để nhìn cái chân trong cùm. Vì muốn tạo điều kiện cho kế hoạch ngày tới, từ hàng nửa tháng trước, tôi đã lấy cái quần đùi rách, quấn chân tôi thành một cục như một cái tổ. Mỗi lần mở cùm thay chân, tôi chỉ việc rút ra rồi lại đút chân kia vào. Cá biệt, có tên cán bộ cẩn thận, trước khi đóng chốt cùm, còn vào nhìn kỹ, khi trông rõ cái chân tôi nằm trong cùm rồi, mới chịu ra đóng chốt, và đóng cửa.
Bốn mươi hai: Chạm Mặt Tử Thần
Chờ mãi rồi thời cơ cũng đến. Hôm ấy là Chủ Nhật. Chiến, cán bộ trực xà lim nghỉ, một cán bộ khác vào thay thế trực ngày Chủ Nhật. Thực là trời giúp để tôi thực hiện được kế hoạch. Gần 8 giờ, tôi nghe tiếng mở cổng xà lim, tiếng chân nhè nhẹ và tiếng chùm chìa khóa lọc xọc. Khi vào tới bàn trực, tiếng xô ghế, rút ngăn kéo bàn, rồi đóng lại, tiếng ném chùm chìa khóa lên bàn, tiếng khì khì thở lúc nặng, lúc nhẹ. Không sai vào đâu nữa, đúng lão Kim già rồi!
Lão này, phần vì già phải đeo kính trắng, mắt nhìn tơ lơ mơ; nhưng phần chính, so với các tên công an khác, lại tương đối dễ tính. Có lần, y trông thấy một người đứng lên sàn nhìn ngoài, lại chỉ mắng và giáo dục mấy câu chứ không cùm. Cũng vì thế, hôm nào lão trực, hết buồng này báo cáo hỏi cái này, lại tới buồng kia hỏi cái khác, xà lim hôm ấy có vẻ rộn ràng hẳn lên. Lại còn điều này cũng rất đặc biệt, khác hẳn với những tên công an ác ôn kia, trước khi mở cửa cho các buồng ra đổ bô, lão đi mở cửa con suốt một lượt, thấy buồng nào bị cùm là cúi xuống rút chốt cùm ngay. Rồi cho tới khi tù ra đổ bô, lấy cơm ăn, xong lúc trả bát vô, bấy giờ lão mới cùm lại. Buổi chiều cũng như vậy.
Tôi suy nghĩ mãi vẫn chưa hiểu vì sao lão có lòng rộng rãi với người tù như thế. Có thể lão đã già rồi, trông lão phải hơn 60 tuổi; đầu lão tóc đã bạc hơn một nửa, mà lão chỉ có cái lon Thượng sĩ. Lão sắp sửa xuống lỗ, trong tâm tư chắc lão muốn có chút phúc đức để khi chết được thanh thản. Phần khác, theo tên Tân nói, lão là cán bộ lưu dụng, đã là cai tù ở Hỏa Lò. Vì thế, thời 1954 trở về nước, cũng có thể khi ấy, những tên Cộng Sản bị tù mua chuộc và lợi dụng lão, rồi kết nạp lão vào tổ chức. Như vậy, lão đã có nhiều thời gian sinh hoạt, giao tế trong quỹ đao quốc gia, đã thấy được lẽ thiện ác, ân oán ở đời. Bây giờ, 10 năm sau, cũng vẫn… coi tù, thực tế cũng vẫn là anh cai tù. Hơn nữa, hẳn phần nào lão đã thấy được thực chất cái chế độ mà trước đây lão tưởng bở. Cho nên, cuối cùng lão tự hiểu là trong đời: Ở hiền gặp lành; càng khôn ngoan lắm, càng oan trái nhiều. Dầu sao, đây cũng chỉ là sự suy đoán của tôi về lão, trong khi thiếu cơ sở cụ thể, vì vậy, chưa hẳn đã là đúng.