Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Cầu Không Vận Bá Linh

14/05/200800:00:00(Xem: 7131)

Cầu không vận của Hoa Kỳ đã tiếp tế cho hơn hai triệu dân Đức tại Tây Bá Linh 60 năm trước...

Ngày nay, chỉ còn 36% dân chúng Âu châu là có thiện cảm với Hoa Kỳ. Còn tỷ lệ ủng hộ ông Bush tại Âu châu có thể khiến đảng Dân Chủ Hoa Kỳ hả dạ: 17%! Nhưng họ hả dạ không lâu vì đa số dân chúng Âu châu lại xem Hoa Kỳ như một mối nguy cho thế giới, còn tệ hơn Iran hay Bắc Hàn!

Họ quên mất một chuyện xưa...

Ngay sau Thế chiến II, Hoa Kỳ đã từ hướng Tây tiến vào nước Đức để giải giới chế độ Đức quốc xã và giải phóng dân Đức vào ngày tám tháng Năm, 1945. Khi tới thủ đô Bá Linh (Berlin), nằm tại hướng Đông của nước Đức, các đơn vị Mỹ đã ngừng, để chờ đợi... đồng minh Liên Xô cùng tiến. Kết quả là Bá Linh bị chia làm tư trong một nước Đức bị chia đôi. Phần Tây Bá Linh là khu vực quản lý của ba nước Mỹ, Anh, Pháp; phía Đông là của Liên Xô.

Mà muốn vào Bá Linh thì phải đi quan phần đất miền Đông, do Liên Xô kiểm soát.

Chiến tranh lạnh thực tế khởi sự từ đó, từ Bá Linh, vì theo quan niệm của Ngoại trưởng Liên Xô thời ấy là Molotov: "những gì xảy ra tại Bá Linh sẽ xảy ra tại nước Đức, và những gì xảy ra tại Đức sẽ xảy ra tại Âu châu". Vào năm 1946, khi 86% dân chúng Bá Linh bỏ phiếu ủng hộ giải pháp dân chủ, Liên Xô coi như sẽ mất đất, hết ảnh hưởng: nếu nước Đức được thống nhất theo chủ trương ấy, Hồng quân Liên Xô phải cuốn gói ra về.

Mâu thuẫn bắt đầu bùng nổ vào tháng Ba năm 1948, khi Liên Xô đòi kiểm soát các chuyến xe hoả từ miền Tây chở hàng vào Bá Linh. Ngày 12 tháng Sáu, Liên Xô đóng xa lộ, rồi lần lượt khoá hết mọi ngả thông thương của Tây Bá Linh với bên ngoài, khi thành phố chỉ còn một tháng lương thực. Trong khi ấy, các đơn vị Anh, Pháp và Mỹ đã lại được triệt thoái dần - hoà bình rồi mà - và không thể đương cự với Hồng quân Liên Xô nếu giao tranh bùng nổ.

Cuộc phong toả Bá Linh bắt đầu. Mục tiêu của Liên Xô là cưỡng bách thống nhất Bá Linh rồi cả nước Đức dưới chế độ cộng sản, đơn giản và minh bạch vô cùng!

Ngày 26 tháng Sáu năm 1948, cách đây sáu chục năm, Hoa Kỳ lập cầu không vận, dùng một hành lang hàng không - đã thỏa thuận từ tháng 11 năm 1945 - để đưa vào Bá Linh phẩm vật tiếp tế từ ba khu vực kiểm soát của Anh, Mỹ, Pháp. Đây là mạch máu kinh tế và cuống phổi tin tức hay thư tín cho cả triệu người dân bị nhốt tại Tây Bá Linh, khi bức màn đỏ buông xuống.

Trận thử lửa nghẹt thở ấy kéo dài gần một năm, cho tới tháng Năm 1949 mới kết thúc. Nhưng mâu thuẫn lại gia tăng khi bức tường Bá Linh được dựng lên vào năm 1961...

Sau khi bức tường ô nhục này bị đập tan vào năm 1989 và nước Đức thống nhất, nhiều người dân Bá Linh vẫn còn nhớ giai đoạn bi thảm ấy. Và biết ơn Không lực Hoa Kỳ cùng Không quân Hoàng gia Anh. Nhưng họ là thiểu số, người trẻ nhất thời 1949 thì nay cũng đã sắp về hưu. Và kể từ năm 1989, gần hai chục năm rồi, hơn triệu người Bá Linh đã dời cư qua nơi khác. Những người mới tới, khoảng triệu rưởi, không còn kỷ niệm gì với việc tiếp tế bằng hàng không của nửa thế kỷ trước.

Vả lại, Chiến tranh lạnh đã kết thúc, Liên Xô đã tan rã, người dân Đức không còn mối lo sinh tử về an ninh hay tự do như xưa. Hoa Kỳ hết là nguồn tiếp vận và sức mạnh bảo vệ....

Chúng ta trở lại chuyện ngày nay.

Người ta khó biết được là dân chúng Âu châu ghét Mỹ vì Hoa Kỳ là gì hay vì Hoa Kỳ làm gì.

"Hoa Kỳ là gì" là những khái niệm chung, khá mơ hồ, của Âu châu về những đặc tính của nước Mỹ, hay về những gì dân Mỹ gọi là "giá trị của Hoa Kỳ. Còn "Hoa Kỳ làm gì" là những chánh sách do một chính quyền thi hành trong một giai đoạn.

Làm sao phân biệt được sự khác biệt giữa "là" và "làm" khi đặc tính của Hoa Kỳ là cổ võ tự do kinh tế, dân chủ chính trị nhưng sẵn sàng bảo vệ hoà bình bằng sức mạnh" Chính quyền Bush bị đả kích vì chiến lược tiến hành tại Iraq hay đối sách với Iran, đó là tội của "việc làm của nước Mỹ"" Nhưng, khi đối lập Dân chủ lại muốn hạn chế tự do ngoại thương bằng biện pháp bảo hộ mậu dịch thì vấn đề có còn là của ông Bush nữa hay không"

Thực tế thì dân chúng Âu châu ngày nay đã có hòa bình, thịnh vượng và chống Mỹ còn gay gắt hơn thời chiến tranh Việt Nam hay thời đối đầu Đông-Tây của Ronald Reagan, vào đầu thập niên 1980.

Phong trào phản chiến năm xưa của dân Đức - với khẩu hiệu ngây dại "thà đỏ hơn chết" - khi Reagan đòi thiết trí hỏa tiễn tầm trung tại biên cương Đông-Tây Đức đã bị lãng quên. Ngày nay, còn bị vượt qua bởi làn sóng phản chiến chống Mỹ vì Iraq. Và Bush là cái cớ bằng vàng.

Nếu bảo rằng đó là phản ứng của người dân chống lại một chánh sách nhất thời của Chính quyền Hoa Kỳ, ta cũng không thể quên rằng hơn 80% dân Đức ngày nay cho là nước Đức phải có một vai trò toàn cầu quan trọng hơn, là chuyện không hề có khi xứ sở bị phân đôi và nằm dưới tầm hoả tiễn của Liên Xô.

Nước Đức hay cả Âu châu nói chung - kể cả dân Tây Ban Nha - sở dĩ chống Mỹ không chỉ vì Bush mà vì trật tự thế giới đã thay đổi. Họ muốn có một tiếng nói cân xứng với vị trí kinh tế của Âu châu: hết lo về chuyện an ninh, người ta muốn nói đến thế giá.

Có thể đó là chuyện của đời thường, là cảm quan của bá tánh. Chứ thực tế thì lãnh đạo Âu châu thường sát cánh với lãnh đạo Hoa Kỳ trong một số hoạt động trên thế giới. Đức có góp quân với Mỹ trong khuôn khổ Minh ước NATO để tấn công Serbia và cứu dân Hồi giáo tại Kosovo năm 1999. Pháp cũng tham dự chiến dịch Afghanistan và Chính quyền Madrid còn tích cực cổ võ chiến dịch Iraq của Mỹ, cho tới khi thủ đô Madrid bị khủng bố đánh bom và đối lập thiên tả thắng cử hai ngày sau mới đòi rút quân khỏi Iraq.

Nhưng, quan hệ không mấy vui giữa hai bờ Đại tây dương còn có một lý do sâu xa khác: vì những gì đang xảy ra trong xã hội Hoa Kỳ và Âu châu, trong tâm tư người dân.

Nhìn từ Âu châu, dân Mỹ nói chung sùng đạo hơn, họ đi lễ nhà thờ nhiều hơn và tôn giáo vẫn còn giữ một vị trí quan trọng trong sinh hoạt chính trị của Mỹ. Tại Âu châu, người dân xa rời với đức tin tôn giáo và thấy dân Mỹ là bảo thủ, cổ hủ và thiếu khai phóng. Việc một tổng thống như Bill Clinton có thể bị đàn hặc mà xém mất chức vì một chuyện tình ái là điều Âu châu cho là khó hiểu, hoặc đạo đức giả! Ngược lại, việc Tổng thống Francois Mitterand có vợ bé con riêng ngay khi ông còn tại chức là một bí mật ai cũng biết mà không nói tới. Vì thuộc khu vực riêng tư của đời sống cá nhân!

Về chủ trương kinh tế, dân Âu châu cũng nghiêng về khuynh hướng bao cấp hơn dân Mỹ và sẵn sàng phát huy tinh thần liên đới để san xẻ với người khác: họ chịu trả thuế cao hơn, đòi phúc lợi xã hội nhiều hơn, và an hưởng cuộc đời hơn dân Mỹ. Dân Mỹ là những người sẵn sàng đi cầy hai ba job và khi bị tăng thuế thì nhăn như bị. Giá xăng là một thí dụ rõ nhất: xăng pha thuế tại Âu châu thường đắt gấp đôi gấp ba xăng Mỹ mà có thấy các chính khách phải cuống cuồng biện bạch như tại Hoa Kỳ đâu!

Dân Âu châu cũng chủ hòa hơn dân Mỹ. Họ không muốn nói đến chuyện đao binh, rất ngần ngại khi gia tăng ngân sách quốc phòng và trong mọi trường hợp đều nghĩ tới giải pháp thương nghị hơn là dụng binh. Họ cũng thấy rằng Âu châu phải có tiếng nói mạnh hơn trên các diễn đàn quốc tế và Bush là lý cớ rất tiện để thoái thác việc góp tiền gom quân đánh giặc!

Hãy tưởng tượng xem: nếu Hoa Kỳ ủng hộ quan điểm lý tưởng của Âu châu mà cùng can thiệp vào Miến Điện để cứu nạn nhân thiên tai, thì việc lập cầu không vận hay tung lính vào bảo vệ công tác cứu trợ sẽ do ai lo phần lớn" Giả thuyết không mấy sai là sau khi giơ tay ủng hộ giải pháp nhân đạo - vượt qua sự phản đối của chế độ quân phiệt Miến để cấp cứu thường dân - Âu châu có thể ngồi trên đôi tay của mình để xem chiến hạm và phi cơ Mỹ bay vào xứ Miến!

Dường như là dù có Bush hay không, Âu châu đã thoát khỏi mối nguy Liên Xô và cho rằng mình có một nhân sinh quan và chính trị quan có giá trị hơn Hoa Kỳ. Vì vậy, họ phải có tiếng nói ngang bằng với Mỹ về thiên hạ sự. Họ chống Mỹ không chỉ vì ghét Bush mà chống Mỹ vì thấy mình khác Mỹ.

Có nhắc tới cầu không vận Bá Linh vào 60 năm trước, họ sẽ coi là một trang sử đã qua.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.