Hôm nay,  

Khi Cư Sĩ Thắc Mắc Về Giới / When Laypeople Question Someone About Precepts

2/11/202506:20:00(View: 4578)
blank 

Khi Cư Sĩ Thắc Mắc Về Giới

Nguyên Giác


Một người cư sĩ có nên chất vấn một Phật tử, dù là nhà sư hay cư sĩ, rằng vị này có thuộc toàn bộ các giới hay không, và vị này có đang giữ trọn vẹn các giới hay không? Bài này sẽ viết trong cương vị một cư sĩ về thái độ của người cư sĩ khí có những nghi vấn về giới đối với bất kỳ một người tu học theo Phật giáo nào.

Lý do có bài viết này, vì trong khi một đoàn người Phật tử Việt Nam đang bộ hành đường xa trên đất Thái Lan tuần qua, có một vị cư sĩ nêu câu hỏi trực tiếp với vị lãnh đạo tâm linh của đoàn bộ hành này rằng vị này có thuộc 250 giới chưa và có giữ trọn vẹn 250 giới hay không. Hình ảnh cuộc đối thoại này được ghi lại trên nhiều video quay bởi nhiều người, và được xem trên YouTube và Facebook có lẽ cả triệu lượt xem. Bài viết này sẽ nêu chủ đề về thái độ của một cư sĩ khi có thắc mắc về một người tu, dù là nhà sư hay cư sĩ, rằng người kia có thuộc hết giới hay không, và có giữ giới trọn vẹn hay không. Bài viết sẽ không kể tên bất kỳ ai, để sẽ phổ quát hóa thành một vấn đề chung cho bất kỳ cư sĩ nào tại bất kỳ nơi nào trên thế giới.

Có một điều hiển nhiên rằng, người cư sĩ có quyền nghi vấn và hoải nghi bất cứ điều gì, kể cả có quyền chất vấn các vị sư về chuyện họ có thuộc đủ giới luật hay không và họ có giữ giới nghiêm túc hay không. Nên ghi nhận rằng, các tu sĩ Phât giáo Nam Tông có 227 giới, trong khi các tu sĩ Phật Giáo Bắc Tông có thế có 250 giới hoặc nhiều hơn tùy tông phái. Tuy nhiên, trong tinh thần tôn kính Tam Bảo, người hỏi nên có thái độ từ ái, biết tôn trọng một cộng đồng nơi có tứ chúng đồng tu.

Thái độ đẹp nhất, xin đề nghị, thay vì hỏi trực tiếp vị tu sĩ rằng thầy có giữ đủ 250 giới hay không, người cư sĩ nên hỏi khéo léo rằng có phải tất cả các nhà sư phải thuộc lòng 250 giới và phải giữ nghiêm ngặt 250 giới đó hay không. Người cư sĩ có thể hỏi thêm vị tu sĩ đó rằng giữ trọn 250 giới có khó lắm không, và có khi nào có giới nào không giữ được. Người cư sĩ có thể hỏi những câu phức tạp hơn, rằng tại sao giới là nền tảng của định. Và những câu phức tạp hơn.

Nên nhớ rằng, câu hỏi trực tiếp rằng thầy có giữ đủ 250 giới hay không có thể sẽ đẩy một nhà sư vào vị trí phạm giới. Nếu nhà sư trả lời rằng nhà sư này giữ trọn vẹn 250 giới, cho dú đó là sự thật, cũng là một sự khoe khoang, vi phạm điều 8 trong Luật tạng Vinaya Pitaka (Pācittiya 8 in Suttavibhanga). Nếu bị người cư sĩ hỏi như thế, vị sư thường không trả lời khẳng định để tránh lỗi khoe khoang giữ trọn giới.

Chúng ta nên ghi nhận rằng giữ giới cho nghiêm túc rất là khó. Như trong Kinh SN 9.14 Sutta, một vị cõi thiên đã rầy một vị sư rằng tại sao lại phạm giới trộm, vì đã trộm mùi hương, khi vị sư thưởng thức mùi hương của hoa, khi ngửi hương sen trong hồ nước. Lần đầu có thể suy đoán là vị sư không có lỗi, nhưng sau khi bị nhắc nhở, những lần sau hiển nhiên là đã phạm giới trộm mùi hương rồi.

Thêm nữa, Đức Phật dạy rằng người Phật tử, dù là cư sĩ hay nhà sư, đều cần ưu tiên tự xét lỗi mình, và chuyện người khác có lỗi hay không thì không hề có tầm quan trọng trong việc bản thân mình tu học. Trong Kinh Pháp Cú, bài Kệ 50, Đức Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh Châu như sau:

50. "Không nên nhìn lỗi người,
Người làm hay không làm.
Nên nhìn tự chính mình.
Có làm hay không làm."


Bây giờ, xin thêm về lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú với hai bài kệ 252, và 253, theo bản dịch của Thầy Minh Châu.

252. "Dễ thay thấy lỗi người,
Lỗi mình thấy mới khó.
Lỗi người ta phanh tìm,
Như sàng trấu trong gạo,
Còn lỗi mình, che đậy,
Như kẻ gian dấu bài."
 
253. "Ai thấy lỗi của người,
Thường sanh lòng chỉ trích,
Người ấy lậu hoặc tăng,
Rất xa lậu hoặc diệt."


Do vậy, khi thắc mắc về một người tu nào về mức độ người này có học thuộc đầy đủ các giới, hay có khả năng giữ giới trọn vẹn hay không, chúng ta nên có những thái độ tế nhị, trong khi hỏi, đặc biệt là khi hỏi trước mắt nhìn của hàng chục người đang quay các videos. Thêm nữa, chúng ta cũng nên nghĩ rằng giữ giới là chuyện khó. Cuối cùng, Đức Phật dạy rằng nên ưu tiên tự xét bản thân mình xem có lỗi hay không, còn chuyện lỗi của người thì không nên xem là quan trọng.

.... o ....

When Laypeople Question Someone About Precepts

Written and translated by Nguyên Giác


Should a layperson question a Buddhist, whether a monk or a layperson, about whether they have memorized all the precepts and if they are adhering to them perfectly? This article will explore the perspective of a layperson who harbors doubts about the precepts in relation to any Buddhist practitioner.
 

The purpose of this article is to discuss an incident that occurred last week in Thailand, where a group of Vietnamese Buddhists was walking a considerable distance. During their journey, a layperson directly asked the group's spiritual leader whether he had learned all 250 precepts and if he adhered to them. YouTubers captured this conversation in numerous videos, which have garnered millions of views on platforms like YouTube and Facebook. This article will explore the implications of a layperson's inquiries regarding a practitioner's understanding and adherence to the precepts, whether the practitioner is a monk or another layperson. To maintain a general perspective, the article will refrain from mentioning specific names, allowing the discussion to apply to any layperson worldwide.
 
It is evident that laypeople have the right to question and express doubts about anything, including the right to inquire whether monks have memorized all the precepts and whether they adhere to them strictly. It is important to note that Southern Buddhist monks typically follow 227 precepts, while Northern Buddhist monks may observe 250 precepts or more, depending on their sect. However, in the spirit of honoring the Triple Gem, the questioner should approach these inquiries with compassion, demonstrating respect for a community where the four groups practice together.
 
The best approach, I would suggest, is for the layperson to tactfully inquire whether all monks are required to memorize and strictly adhere to all 250 precepts rather than directly ask the monk if he follows them all. The layperson could also ask the monk if staying true to all 250 precepts is difficult and if any are unattainable. Additionally, the layperson might pose more complex questions, such as why precepts serve as the foundation for concentration, along with other intricate inquiries.
 
It is important to remember that a direct question asking whether a monk has perfectly adhered to the 250 precepts can place the monk in a position where he may inadvertently break them. If a monk responds affirmatively, even if his statement is true, it can be perceived as boastful, thereby violating Pācittiya 8 in the Vinaya Pitaka. When posed this question by a layperson, a monk typically refrains from answering affirmatively to avoid the offense of boasting about his adherence to the precepts.
 
We should note that it is very challenging to adhere strictly to the precepts. In the SN 9.14 Sutta, a deva reprimanded a monk for violating the precept against stealing by taking in the fragrance of a flower, specifically the scent of a lotus in a pond. Initially, it could be inferred that the monk was not at fault; however, after being reminded, it became clear that he had indeed broken the precept by enjoying the scent a second time.
 
Furthermore, the Buddha taught that Buddhists, whether lay practitioners or monastics, should prioritize examining their own faults. The faults of others are of no significance in their personal practice. In the Dhammapada, Verse 50, the Buddha stated, according to Ācāriya Buddharakkhita's translation:
 
Verse 50: Let none find fault with others; let none see the omissions and commissions of others. But let one see one’s own acts, done and undone.
 
Next, here is some additional advice from the Buddha's teachings in the Dhammapada, specifically verses 252 and 253, according to the translation by Ācāriya Buddharakkhita.

Verse 252: Easily seen is the fault of others, but one’s own fault is difficult to see. Like chaff one winnows another’s faults, but hides one’s own, even as a crafty fowler hides behind sham branches.

Verse 253: He who seeks another’s faults, who is ever censorious—his cankers grow. He is far from destruction of the cankers.

Therefore, when we inquire of a monk whether he has memorized all the precepts or is able to adhere to them fully, we should approach our questioning with tact, particularly when we are in the presence of numerous individuals filming videos. Additionally, we must recognize that adhering to the precepts can be challenging. Ultimately, the Buddha taught that we should prioritize self-examination to identify our own faults rather than focusing on others' shortcomings.
.
THAM KHẢO / REFERENCE:
-- Xem câu 8 trong 92 pacittiya:
https://www.dhammawiki.com/index.php?title=92_pacittiya_(rules_entailing_confession)
-- Kinh SN 9.14:
https://suttacentral.net/sn9.14
-- Kinh Pháp Cú, bài Kệ 50:
https://thuvienhoasen.org/p15a7961/pham-01-10
https://suttacentral.net/dhp44-59/en/buddharakkhita
-- Kinh Pháp Cú, bài Kệ 252 & 253:
https://thuvienhoasen.org/p15a7962/pham-11-20
https://suttacentral.net/dhp235-255/en/buddharakkhita
.
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
5/29/202509:12:00
Bài này có nhan đề Vô Sanh, trong tạp chí Viên Âm Nguyệt San, số 22, ấn bản tháng 7 và 8 năm 1936, dài sáu trang, in trên các trang 30-35. Tác giả ghi là Viên Âm, có lẽ là Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Bài viết dựa vào lý luận Trung Quán của ngài Long Thọ (150-250) để thấy tất cả các pháp, thí dụ như cái bàn gỗ, qua ánh sáng của Không, Giả, Trung. Tất cả lý luận trong bài là một chuỗi công cụ giải thoát tuyệt vời, và không hề xa lời dạy của Đức Phật. Toàn văn được scan lại từ bản PDF, và dịch ra Anh văn để Phật tử thế hệ trẻ tiện dụng
5/23/202510:06:00
Bài này trích từ Viên Âm Nguyệt San, số 21, tháng 5 và 6, năm 1936. Tác giả là Viên Âm, được suy đoán có lẽ là Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Bài này kể chuyện một viên quan đời Vua Tự Đức, chỉ ra tánh vô thường và tánh vô ngã trong kiếp người. Đối với nhà Phật, hễ nhận ra tánh vô thường thường trực nơi thân tâm là đủ để giải thoát, không cần tu pháp gì khác nữa. Ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ cùng từng có bài thơ, nói rằng muốn vượt qua dòng sông sinh tử để tới bờ giải thoát, thì hãy xem thân tâm như con trâu bùn qua sông, tan vào dòng sông.
5/17/202510:14:00
Trên báo Viên Âm, số 15, ấn bản tháng 5 và tháng 6 năm 1935, có câu hỏi của ông T.T. rằng trong pháp tu Tịnh Độ, ông nên niệm A Di Đà hay nên niệm A Mi Ta Ba. Bài trả lời ký tên Viên Âm, được suy đoán là cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Bản văn nơi đây được scan lại từ bản PDF và dịch ra Anh văn để tiện cho thế hệ sau nghiên cứu.
5/4/202511:50:00
Người học Phật, chẳng những phải tham cứu chơn lý, mà lại cần phải y như chơn-lý mà thiệt thành cho đến khi chứng đặng chơn-lý; vì nếu chỉ hiểu lý mà không tu thì có khác chi người nói ăn mà không ăn, biết bao giờ cho hết đói. Trong các phép tu hành, phép niệm Phật (Tịnh Độ-Tôn) là một phép tuyệt-diệu, đã dễ học dễ tu, lại mau có hiệu-quả. Nghĩa lý của phép niệm Phật tuy nhiều, nhưng không ngoài sáu chữ: Nam mô A- Di-Đà Phật.
5/4/202511:32:00
Lời dịch giả: Bài này của ngài Trúc Lâm Mật Nguyện, được suy đoán là của cố Hòa thượng Thích Mật Nguyện (1911-1972). Bài này in trên Viên Âm Nguyệt San số 11, ấn bản tháng 10/1934. Bài này được scan lại và dịch ra tiếng Anh để làm tài liệu cho những người nghiên cứu về Phật học đầu thế kỷ 20.
4/7/202521:19:00
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
4/3/202513:34:00
Hiện tại, các chư Tăng Ni đều là thành viên của các Giáo Hội Hải Ngoại, nhất tâm đảnh lễ quý ngài, thương tưởng và gìn vàng giữ ngọc của truyền thống, kỷ cương của mỗi Giáo Hội mình, để không lạc hướng và mất đi những giá trị cốt lõi sau 50 năm nhìn lại chặng đường đầy cam go thử thách này.
3/31/202509:07:00
Bài viết này sẽ phân tích một đoạn văn nói về lời dạy về minh tâm và kiến tính, ghi trong sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, một tác phẩm về Thiền Tông Việt Nam xuất bản lần đầu vào năm 1796. Tác phẩm này được in trong Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do nhiều tác giả trong Viện Nghiên Cứu Hán Nôm biên dịch.
3/22/202522:19:00
Bài viết này sẽ khảo sát rằng ngài Hải Lượng Thiền Sư, tức là Ngô Thì Nhậm (1746-1803), đã dạy cách nào để xa lìa tham, sân, si / This article will explore how Zen Master Hải Lượng, also known as Ngô Thì Nhậm (1746-1803), instructed followers on overcoming greed, anger, and delusion
3/20/202522:53:00
Ngày 11 tháng 4 năm 2025, một sự kiện đặc biệt sẽ diễn ra giữa lòng đô thị New York – một con đường mang tên “Thích Nhất Hạnh Way” chính thức được khánh thành. Từ đây, đoạn đường West 109th Street nối Riverside Drive đến Broadway sẽ mang tên vị Thiền sư hiền hòa từ Việt Nam, người suốt đời hướng dẫn thế giới về hơi thở, bước chân và an lạc giữa cuộc đời này.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.