Biên khảo văn học
Hình 1: Thẻ “nhà báo” của Trần Mộng Tú khi làm cho hãng thông tấn AP (Associated Press]
Sài Gòn; thẻ này do MACV (US Military Assistance Command, Vietnam) cấp,
chỉ có giá trị mỗi 3 tháng. [tư liệu TMT]
***
Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương
-- Trần Mộng Tú
[Quà Tặng Trong Chiến Tranh, 1969]
PHỤ NỮ GIỮA CHIẾN TRANH VIỆT NAM: THỜI ĐIỂM 1969
**
Hình 2: trái, hình bìa cuốn sách Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình [Visions of War,
Dreams of Peace] [1] Nxb Warner Books 1991, phải, hình bìa cuốn Miểng Đạn Trong Tim
[Shrapnel in The Heart] [2] của Laura Palmer”, Nxb Vintage Books 1987.
[Tư liệu Ngô Thế Vinh]
1969 DUSTY CÔ Y TÁ MỸ GIỮA CUỘC CHIẾN TRÊN CAO NGUYÊN
Bài thơ có nhan đề: “Hello, David”, được ghi là của một cô y tá Mỹ, có tên Dusty phục vụ trong khu cấp cứu nơi một bệnh xá dã chiến vùng Tam Biên (Tri-Border Area) trên Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Bài thơ ấy – trong nhiều năm, được đánh giá là hay và cảm động: với nhân vật xưng “tôi”, là một cô y tá – viết cho một chiến binh trẻ tên David bị thương nặng được cô chăm sóc và mới chết đêm qua.
HELLO, DAVID
CHÀO DAVID
Chào David – tên em là Dusty
Hello , David – My name is Dusty
Em là y tá của anh đêm qua
I’m your night nurse…
Em sẽ bên anh
I will stay with you
Em đo sinh hiệu của anh
mỗi 15 phút
I will check your vitals
every 15 minutes
Em sẽ phải ghi xuống
I will document inevitability
Em sẽ treo thêm bịch máu nữa
I will hang more blood
Và cho anh thuốc giảm đau
and give you something for your pain
Em sẽ bên anh
và vuốt mặt anh
I will stay with you
and I will touch your face
Vâng, chắc chắn rồi,
Yes, of course
Em sẽ viết thư cho mẹ anh
và nói với bà rằng anh can đảm
I will write your mother
and tell her you were brave
Em sẽ viết thư cho mẹ anh
và nói anh thương mẹ biết dường nào
I will write your mother
and tell her how much you love her
Em sẽ viết thư cho mẹ anh
và sẽ nói với bà hãy ôm hôn
đứa em gái tuổi thơ ngỗ nghịch của anh
I will write your mother
and tell her to give your bratty kid sister
a big kiss and hug
Điều gì em sẽ không nói với bà
What I will not tell her
rằng anh đã hôn mê
is that you were wasted
Em sẽ bên anh
và nắm lấy tay anh
I will stay with you
and I will hold your hand
Em sẽ bên anh
và thấy sự sống của anh
thoát khỏi những ngón tay em,
đi vào hồn em
I will stay with you
and watch your life
flow through my fingers
into my soul
Em sẽ bên anh
cho tới khi anh còn bên em
I will stay with you
until you stay with me
Vĩnh biệt, David – tên em là Dusty
Goodbye, David – my name is Dusty
Em là người cuối cùng
anh thấy
I am the last person
you will see
Em là người cuối cùng
anh nắm tay
I am the last person
you will touch
Em là người cuối cùng yêu anh
I am the last person who will love you.
Vĩnh biệt, David – em tên là Dusty,
So long, David – My name is Dusty,
David, ai sẽ cho em thuốc giảm nỗi đau em?
David, who will give me something for my pain?
Dusty, y tá Việt Nam, 1969
(Dusty, Vietnam nurse,1969)
[bản dịch tiếng Việt của Ngô Thế Vinh]
Hình 3: hình chụp một phần của tượng đài Vietnam Women’s
Memorial tại Washington, D.C. do điêu khắc gia Glenna Goodacre
(1939 – 2020) và được Phó Tổng thống Al Gore cắt băng khánh
thành nhân ngày Cựu Chiến Binh 11/11/1993.
[Source: Montana Public Radio, © Public Domain]
Một thân nhân của cựu chiến binh, Karen S. Zacharisa đã phát biểu: “Một người nào đó nói rằng, mình có mặt ở đó cầm tay một người đang hấp hối tên là David là điều không thể tưởng tượng được. Zacharisa nói rằng cô rất đau buồn nhưng bây giờ thì cứ chờ xem điều gì là động lực để Shuster làm như vậy, nhưng cô cũng xác nhận rằng ngay cả bây giờ đọc bài thơ ấy vẫn thực sự gây xúc động. Ký giả Laura Palmer cho biết có nhiều cựu chiến binh cũng nghĩ như vậy”. [4]
Dẫu sao, Dana “Dusty” Shuster cũng đã tạo được mối quan tâm tới những y tá quân đội, và thi ca của Dusty đã giúp mọi người nhận biết được sự hy sinh và cống hiến của những phụ nữ ấy trong chiến tranh Việt Nam. [1].
Ý kiến người viết [Ngô Thế Vinh]: Trong sáng tạo văn học, không nhất thiết bản thân tác giả phải là người thật việc thật giống như nhân vật trong tác phẩm. Với tài năng và sức mạnh của trí tưởng tượng sáng tạo, nhà thơ nhà văn vẫn có thể sáng tác ra những bài thơ, áng văn giá trị, “thật hơn cả sự thật” làm xúc động sâu xa lòng người. “Hello, David” vẫn là một bài thơ hay và cảm động, nhưng điều mà Dana “Dusty” Shuster đã làm thất vọng nhiều ngưởi – trong đó có các cựu chiến binh và gia đình của họ, không phải vì cô đạo văn đạo thơ của ai, nhưng chính là phần cô đã man khai về lý lịch của mình, khi họ biết cô ấy chưa hề là một y tá, và chưa hề có mặt ở Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Nếu Dana “Dusty” Shuster hiểu được rằng, vẫn có thể có “những sự thật trong hư cấu văn học”, thì cô đâu cần phải vẽ ra một lý lịch khác như vậy. Chính điều đó đã làm mất đi sự tin cậy của độc giả nơi cô!
1969 XUÂN QUỲNH VÀ CON SƠ SINH NƠI TUYẾN ĐẦU VĨNH LINH, QUẢNG TRỊ
Xuân Quỳnh, sinh năm 1942 tại Hà Đông [cùng nơi sinh với Trần Mộng Tú]. Xuân Quỳnh từ năm 13 tuổi đã được tuyển vào Đoàn ca múa nhạc Trung ương. Từ một cô văn công, Xuân Quỳnh đến với thi ca. Năm 20 tuổi (1962), Xuân Quỳnh được cử đi học lớp sáng tác cho các nhà văn trẻ. Từ 1964, giã từ Đoàn ca múa, bắt đầu làm biên tập viên cho tuần báo Văn Nghệ, Xuân Quỳnh nổi tiếng ngay với tập thơ đầu tay có tên “Tơ tằm – Chồi biếc”. Năm 1968, là tập thơ thứ hai “Hoa dọc chiến hào” phản ánh cảm xúc của nhà thơ trước cảnh bom đạn của đất nước.
TUỔI THƠ CỦA CON
MY SON’S CHILDHOOD
Tuổi thơ con có những gì
What do you have for your childhood
Có con cười với mắt tre trong hầm
That you still smile in the bomb shelter
Có làn gió sớm vào thăm
There is the morning wind which comes to visit you
Có ông trăng rằm sơ tán cùng con
There is the full moon which follows you
Sông dài, biển rộng, ao tròn
The long river, the immense sea, a round pond
Khói bom đạn giặc, sao hôm cuối trời
The enemies’ bomb smoke, the evening star
Ba tháng lẫy, bẩy tháng ngồi
At three months you turn your head, at seven you crawl
Con chơi với đất con chơi với hầm
You toy with the earth, you play with a bomb shelter
Mong ngày, mong tháng, mong năm
I long for peace everyday, every month for a year
Một năm con vịn vách hầm con đi
For a year, you toddle around the shelter
Trời xanh các ngả ngoài kia
The sky is blue, but way over there
Cỏ xanh quanh những hàng bia trên mồ
The grass is green far away on the ancient tombs
Quả tim như cái đồng hồ
My heart is a pendulum
Nằm trong lồng ngực giục giờ hành quân
Pounding my chest, keeping time for the march
Dế con cũng biết đào hầm
The small cricket knows to dig a shelter
Con cua chả ngủ, canh phòng đạn bom
The crab doesn’t sleep: it, too, fears the bombs
Trong trăng chú cuội tắt đèn
In the moonlight, even the hare hides
Để cho mắt giặc mây đen kéo về
The black clouds hinder the enemy’s sight
Cái hoa cái lá biết đi
Flowers and trees join the march
Theo người qua suối, qua khe, qua làng
Concealing troops crossing streams, valleys, villages
Chiến hào mặt đất dọc ngang
My son, trenches crisscross everywhere
Sẽ dài như những con đường con qua
They’re as long as the roads you’ll someday take
Hầm sâu giờ quý hơn nhà
Our deep shelter is more precious than a house
Súng là tình nghĩa đạn là lương tâm
The gun is close by, the bullets ready
Mẹ nuôi ngọn lửa trong hầm
If I must shoot.
Để khi khôn lớn con cầm lên tay
When you grow up, you’ll hold life in your own hands
Những điều mẹ nghĩ hôm nay
Whatever I think at present
Ghi cho con nhớ những ngày còn thơ
I note down to remind you of your childhood days
Ngày mai tròn vẹn ước mơ
In the future, when our dreams come true,
Yêu thương thêm chuyện ngày xưa nước mình
You’ll love our history all the more.
-- Xuân Quỳnh
Vĩnh Linh, 24-11-1969
[Bản dịch tiếng Anh của Phan Thanh Hao và Lady Borton]
1969 TRẦN MỘNG TÚ NHẬN TIN CHỒNG TỬ TRẬN GIỮA MỘT SÀI GÒN TRONG KHÍ HẬU CHIẾN TRANH
Trần Mộng Tú sinh năm 1943 tại Hà Đông, kém Xuân Quỳnh một tuổi. TMT đã có một thời con gái hoa mộng với tình yêu đầu đời như mọi thiếu nữ khác. Sau Lễ Phục Sinh một tuần, ngày 12/4/1969, là một đám cưới, Cung tử trận ngày 30/7/1969 – chỉ ba tháng sau – là đám tang chồng. TMT trở thành góa phụ ở tuổi mới ngoài 20. Bài thơ Quà Tặng Trong Chiến Tranh được TMT sáng tác trong nước vào thời điểm rất đau thương này, từ những xúc động trước cái chết của người yêu đầu đời và là chồng mới cưới của cô.
Hình 4: Trần Mộng Tú và Thái Hoàng Cung trong ngày đám cưới
(ngày 12 tháng 4 năm 1969). Kiên Giang – Rạch Giá là địa danh
định mệnh, nơi chuẩn úy - nhà giáo Thái Hoàng Cung, chồng mới
cưới của Trần Mộng Tú tử trận ba tháng sau trong một cuộc hành
quân (tháng 7 năm 1969), thời điểm TMT làm bài thơ này.
[Tư liệu TMT].
Năm 1990, lần đầu tiên hai bài thơ viết về chiến tranh của Trần Mộng Tú [The Gift in Wartime / Quà Tặng trong Chiến Tranh và Dream of Peace / Giấc Mơ Hòa Bình] được chọn đăng trong tuyển tập thơ: “Visions of War, Dreams of Peace” [1] (Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình). Đó là cũng là lần đầu tiên thơ Trần Mộng Tú xuất hiện trên văn đàn thế giới. Quà Tặng trong Chiến Tranh là bài thơ được chọn cho bài viết này.
QUÀ TẶNG TRONG CHIẾN TRANH
THE GIFT IN WARTIME
Em tặng anh hoa hồng
I offer you roses
Chôn trong lòng huyệt mới
Buried in your new grave
Em tặng anh áo cưới
I offer you my wedding gown
Phủ trên nấm mồ xanh
To cover your tomb still green with grass
Anh tặng em bội tinh
You give me medals
Kèm với ngôi sao bạc
Together with silver stars
Chiếc hoa mai màu vàng
And the yellow pips on your badge
Chưa đeo còn sáng bóng
Unused and still shining
Em tặng anh tuổi ngọc
I offer you my youth
Của những ngày yêu nhau
The days we still in love
Đã chết ngay từ lúc
My youth died away
Em nhận được tin sầu
When they told me the bad news
Anh tặng em mùi máu
You give me the smell of blood
Trên áo trận sa trường
From your war dress
Máu anh và máu địch
Your blood and your enemy’s
Xin em cùng xót thương
So that I may be moved
Em tặng anh mây vương
I offer you clouds
Mắt em ngày tháng hạ
That linger on my eyes on summer days
Em tặng anh đông giá
I offer you cold winters
Giữa tuổi xuân cuộc đời
Amid my springtime of life
Anh tặng môi không cười
You give me your lips with no smile
Anh tặng tay không nắm
You give me your ams without tenderness
Anh tặng mắt không nhìn
You give me your eyes with no sight
Một hình hài bất động
And your motionless body
Anh muôn vàn tạ lỗi
Seriously, I apologize to you
Xin hẹn em kiếp sau
I promise to meet you in our next life
Mảnh đạn này em giữ
I will hold this shrapnel as a token
Làm di vật tìm nhau.
By which we will recognize each other.
Sài Gòn Tháng 7/ 1969
-- Trần Mộng Tú
[bản dịch tiếng Anh của Vann Phan]
Bài thơ tiếng Việt của TMT nguyên là một cuộc đối thoại giữa hai người, “thi sĩ và tử sĩ”, nhưng qua bản dịch cùa Vann Phan, có chỗ đã biến thành một độc thoại – với ngôi thứ nhất!
Điều khá ngạc nhiên là trong bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh”, người ta không nghe thấy tiếng khóc gào thét của nỗi đau mất mát từ người góa phụ trẻ Trần Mộng Tú, khi người yêu đầu đời, người chồng mới cưới của cô bị tử trận. Khi ấy và cả những năm về sau này, người ta cũng không thể tìm thấy lửa hận thù “ta và địch” trong thơ TMT, mà chỉ có nỗi thổn thức xót thương chung cho tang tóc của cả đôi bên trong chiến tranh:
Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương
“Tôi đi len lỏi giữa những dãy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc. Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến”. [5]
TRẦN MỘNG TÚ
Sinh quán Hà Đông, Bắc Việt. Lớn lên ở Hà Nội, rồi Hải Phòng, năm 1954 di cư vào Nam. Từ 1968 tới 1975 làm nhân viên hãng thông tấn The Associated Press Sài Gòn. Di tản sang Mỹ tháng Tư năm 1975. Ở hải ngoại, Trần Mộng Tú cộng tác với các tạp chí văn học và trang mạng ở Mỹ và các nước khác. Trần Mộng Tú hiện sống với gia đình ở một vùng ngoại ô yên tĩnh bên ngoài Seattle, tiểu bang Washington, Tây Bắc Hoa Kỳ. Bước qua tuổi “cổ lai hy”, TMT vẫn làm thơ, viết văn, và mỗi cuối tuần cùng chồng tới nhà thờ làm công tác thiện nguyện.
TMT VỚI MỘT TIỂU SỬ THƠ
Người Đàn Bà Thi Sĩ Việt Nam:
…
Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam
Bỏ lại trên quê hương
Một mối tình
Một mối tình được gắn huy chương
Huy chương anh dũng bội tinh…
…
Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam
Đang sống trên đất Mỹ
Chồng tôi người bản xứ
Chúng tôi có ba con chưa đến tuổi thành niên
Đời sống êm đềm
Trong một thành phố nhỏ…
-- TMT
TÁC PHẨM TMT ĐÃ XUẤT BẢN
Hình 5: hình bìa một số tác phẩm tiếng Việt của Trần Mộng Tú đã xuất bản, từ trái: Vườn Măng Cụt (2009), Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (1969-2009), Để Em Làm Gió (1996), Mưa Sài Gòn Mưa Seattle (2006), Câu Chuyện của Lá Phong (1994), Ngọn Nến Muộn Màng (2005), Thơ Trần Mộng Tú (1990), Cô Rơm và Những Truyện Ngắn (1999), Lịch Trần Mộng Tú Xuân Ất Mùi 2015. [nguồn: Blog’s TMT]
Tiếng Việt:
(1) Thơ Trần Mộng Tú (Tập Thơ-1990) Nxb Người Việt. (2) Câu Chuyện Của Lá Phong (Tập Truyện Ngắn-1994) Nxb Người Việt. (3) Để Em Làm Gió (Tập Thơ-1996) Nxb Thế Kỷ 21. (4) Cô Rơm và Những Truyện Ngắn (Tập Truyện Ngắn-1999) Nxb Văn Nghệ. (5) Ngọn Nến Muộn Màng (Tập Thơ-2005) Nxb Thư Hương. (6) Mưa Sài Gòn Mưa Seattle (Tập Truyện- 2006) Nxb Văn Mới. (7) Vườn Măng Cụt (Tập Truyện Ngắn và Tản Văn - 2009 Nxb Văn Mới). (8) Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (Thơ 1969-2009- Tác Giả Xuất Bản). (9) Blog: tranmongtu.blogspot.com
Tiếng Anh:
(1) Visions of War, Dreams of Peace, Writings of Women in the Vietnam War. Warner Books 1991. (2) American Literature Textbook, Glencoe / McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000. (3) An Anthology of Vietnamese Poems: From the Eleventh through the Twentiedth Centuries. Yale University Press, New Haven and London, 2001. (4) The Defiant Muse (The Vietnamese Feminist Poems), The Feminist Press and The Women’s Publishing House Hanoi, Vietnam 2007.
Các bài thơ được phổ nhạc:
1/ Dòng Sông Đứng Lại (nhạc Phạm Anh Dũng). 2/ Tháng Mười Hoa Cúc (nhạc Phạm Anh Dũng). 3/ Quà Tặng Chiến Tranh (nhạc Phạm Anh Dũng). 4/ Tháng Mười Hoa Cúc (nhạc Hoàng Quốc Bảo). 5/ Quán Lạ (nhạc Hoàng Quốc Bảo). 6/ Giọt Tình Sầu (nhạc Nam Lộc). 7/ Gọi Anh Mùa Xuân (nhạc Anh Bằng). 8/ Nhân Chứng (nhạc Vũ Tiến Dũng). 9/ Chia Tay (nhạc Nhật Ngân).10/ Kiếp Sau (nhạc Nhật Ngân). 11/ Thanh Xuân (nhạc Nguyễn Tuấn).12/ Mùa Thu Paris (nhạc Nguyễn Minh Châu).13/ Dòng Sông Đứng Lại (nhạc Lê Thanh Cảnh). 14/ Ngọn Nến Muộn Màng (nhạc Lê Thanh Cảnh).15/ Tháng Tư Nhuộm Tóc (nhạc Lê Thanh Cảnh). 16/ Quà Tặng Trong Chiến Tranh (nhạc Nguyễn Ngọc Tiến).
***
Hình 6: trái, hình bìa cuốn Mưa Sài Gòn, Mưa Seattle, Tạp Văn của Trần Mộng Tú, Nxb Văn Mới 2006; phải, hình bìa Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (1969-2009) của Trần Mộng Tú, Tác giả xuất bản 2009. Đến nay, đã hơn nửa thế kỷ – hay chính xác hơn 54 năm sau (1969-2023), bắt đầu bước vào tuổi 80, Trần Mộng Tú vẫn làm thơ, vẫn với sức sáng tác phong phú và sung mãn. Có thể nói, Trần Mộng Tú như một hiện tượng rất hiếm hoi: bà là một nhà thơ không có tuổi tác.
Trần Mộng Tú làm thơ, viết truyện ngắn, tùy bút, làm báo. Sự nghiệp văn học của Trần Mộng Tú chủ yếu là thơ. Thơ của Trần Mộng Tú gồm nhiều thể loại: thơ tình, thơ thời sự, với tình yêu thương sâu sắc trước các thảm kịch như chiến tranh Trung Đông, khủng bố 911 ở Mỹ (Trả lại tôi), 39 thùng nhân chết trên con đường kiếm sống (Tôi không thở được), thảm họa môi sinh Formosa với hàng loạt cá chết (Gửi người em Vũng Áng)…
Văn chương của Trần Mộng Tú thanh thoát. Ở đó không hề có bóng dáng của thù hận; và với thể loại nào cũng thấm đẫm những tình cảm đôn hậu, yêu thương, rất Trần Mộng Tú.
TÌM LẠI THỜI GIAN ĐÃ MẤT -- 1968 TMT VÀ CƠ DUYÊN VỚI AP SAIGON
1968 TÌNH YÊU ĐẦU ĐỜI ĐẸP NHƯ MƠ
Do hai gia đình có hai bà mẹ thân nhau, TMT và Thái Hoàng Cung có dịp quen nhau từ hồi trung học. Cung là con thứ hai trong một gia đình ba anh em trai. Ba Cung nguyên là nhà giáo dạy tiếng Pháp, mở một trường học ở Nam Định, ông bị Việt Minh bắt và thủ tiêu trong thời gian cuộc kháng chiến chống Pháp. Lúc đó mẹ Cung cũng là nhà giáo, còn rất trẻ đã sớm góa bụa, bà đem ba đứa con về Hà Nội, đứa lớn nhất lúc đó chỉ mới 10 tuổi, bà vừa đi dạy học vừa bươn chải nuôi nấng ba con. Vì không biết ngày chồng chết, bà lấy ngày ông bị Việt Minh bắt đi làm ngày giỗ. Rồi tới năm 1954, sau Hiệp định Genève, bà lại dẫn ba con di cư vào Nam.
NỖI KHẮC KHOẢI CỦA MỘT CHINH PHỤ
1968 BUỔI TRƯA SÀI GÒN
Mùa mưa đang về giữa Sài Gòn
con đường Tự Do vỡ òa bong bóng
em đi dưới trời mưa
Em nhớ anh
em khóc
Những chiếc taxi nằm im
Sài Gòn trong mưa
Sài Gòn buổi trưa
Sài Gòn như nỗi chết
Sao anh còn trẻ thế
Sao em còn trẻ thế
Sao tình yêu hai ta còn trẻ thế
lại lăn vào
một cuộc chiến già nua
Bây giờ một người lính mới
cầm cây súng cũ xì
ở tận chi khu Trà Bồng
một địa danh nghe mà
ngơ ngác
Bây giờ một người con gái
cầm trái tim mình bằng cả hai tay
đi dưới cơn mưa
đầy bong bóng nước
Ôi Sài Gòn buổi trưa
Em nhớ anh
Em nhớ anh
em khóc.
-- Trần Mộng Tú. 1968
1969 BẢN TIN TRONG NGÀY
Em đi trong thành phố
mùa đông đến sau lưng em
gió thổi trên nóc nhà thờ Đức Bà
em se mình trong chiếc xích lô
Bản tin em lấy về sáng nay ở Nha Báo Chí
số chết của ta và địch
chia đôi rất công bình
Ở tòa báo em làm
những người phóng viên
đang thu xếp ngày mai ra Đà Nẵng
không có ai đi Kiên Giang*
làm sao em gửi được cho anh
một nụ hôn vào chiếc bao thư
làm sao em gửi được cho anh
những giọt nước mắt sáng nay của em
vào trong bao thuốc lá
Em se mình trong tòa báo
hoang mang
cúi xuống một bản tin mới ra
Trưa nay
Ta chết nhiều hơn địch
Em gọi trong lồng ngực đáng thương của mình
Ôi anh!
Ôi anh!
Ôi anh!
Buổi chiều
em trở về
chiếc xích lô vẫn còn đầy gió.
-- Trần Mộng Tú, Tháng 3-1969
1969 TANG TÓC BA THÁNG SAU NGÀY CƯỚI
Cả hai người bước vào buồng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không ai muốn là mình nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện gì. Cuối cùng Carl nói: “Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận.” Tôi đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp: “Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của Đại học xá Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.” Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đình.
Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7 năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đã đi dạy được một năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi khu Trà Bồng), chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được. Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái về dạy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.
Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để giữa lòng phi đạo. Anh chồng tôi dặn: “Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ.”
Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước qua từng cái túi có bọc thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn nguyên đôi giày saut ra một đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái thòi nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không còn cảm giác nữa. Không biết tôi có giẫm phải ai không. Tôi cố gắng không giẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy gì đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo: “Đúng là Cung rồi.”
Hình 7: Một góc của phi trường Bình Thủy, Cần Thơ 1969,
nơi chiếc quan tài của Thiếu úy Thái Hoàng Cung được chiếc
máy bay vận tải của Quân đội Mỹ thả xuống.
Tôi thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một dòng nước đục chảy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn họ.
Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng nhìn mấy cây nến chảy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ khang khác với những người trong trại lính này. Có người cũng từ xa đến chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.
Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay ở xã Vĩnh Thanh Vân. Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau:
“Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!”
Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có ba người trong gia đình này ít khóc nhất. Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sài Gòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con. Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời vì lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi tìm đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà, cô còn may mắn chán.
Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sài Gòn. Trong khi đó thì các con của bà: con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.
Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhất thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhàu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ tang thương. Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.
Sau này tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường? Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.
Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.
Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà thì phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. Họ nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh này những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta.” [5] [Bình Thủy, 1969]
1970 TMT TRỞ LẠI SỐNG VỚI BÌNH THƯỜNG MỚI
Cho dù có chồng chất đau đớn và tang thương đến thế nào, cuộc “chiến tranh già nua” ấy – chữ của TMT, vẫn cứ lạnh lùng tiếp diễn, với vô số đạn bom vô tri của cả đôi bên. Mỗi ngày Sài Gòn, và cả trên khắp nẻo đường đất nước, vẫn có thêm bao nhiêu vành khăn tang mới và rồi họ vẫn cứ phải sống.
*
Hình 8: Trần Mộng Tú (2a) Tokyo 1971, (2b) New York 1972. [tư liệu TMT]
BẦY CHIM BỎ XỨ * [tên một tổ khúc của nhạc sĩ Phạm Duy]
NHỮNG NGÀY ĐẦU DI TẢN – TMT VÀ FRANK
SEATTLE ĐẤT LÀNH CHIM ĐẬU 1988
*
Hình 9: Trần Mộng Tú nơi thư phòng. Trên cánh cửa bên ngoài phòng làm việc của TMT
có dán mảnh giấy với mấy chữ viết tay của Frank, chồng Chị: “Quiet! Poet at work”,
sao cho đám con nhỏ không làm phiền mẹ. Hơn 40 năm sau ngày cưới, nay đã là ông
bà nội ngoại, nhưng họ vẫn giữ được lễ “tương kính như tân”.
[Nguồn: Blog’s TMT].
NHÀ THỜ TÂN ĐỊNH SÀI GÒN 23 NĂM SAU [11-1998]
“Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở nhà thờ Tân Định. Tôi đi len lỏi giữa những dãy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.
Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến.” [Bình Thủy tháng 8-1969, Tân Định, tháng 11-1998] [5]
THƠ TMT TRONG SÁCH GIÁO KHOA MỸ NĂM 2000
Có ba sự kiện đáng nhớ năm 2000 trong sự nghiệp văn học của TMT:
-
Từ năm 2000, có một giai đoạn Trần Mộng Tú viết truyện nhi đồng cho báo Los Angeles Times;
-
Có thơ Anh ngữ trong sách giáo khoa Mỹ cho chương trình trung học (American Literature – Glencoe – 1999).
-
Chủ Bút Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở California. (2002 - 2005).
Hình 10: Trần Mộng Tú viết truyện ngắn nhi đồng tiếng Anh mỗi cuối tuần
trên báo Los Angeles Times từ năm 2000. [nguồn: L.A. Times archives].
QUÀ TẶNG TRONG CHIẾN TRANH
GIFTS IN WARTIME
Em tặng anh hoa hồng
my gift to you a rose
Chôn trong lòng huyệt mới
to bury it inside the newly dug grave
Em tặng anh áo cưới
my gift to you my wedding dress
Phủ trên nấm mồ xanh
to drape it over the new green tomb
Anh tặng em bội tinh
you gave me the silver star
Kèm với ngôi sao bạc
that came along with the military medal
Chiếc hoa mai màu vàng
and the insignia of yellow apricot flowers
Chưa đeo còn sáng bóng
that are still shiny for being never worn
Em tặng anh tuổi ngọc
I gave you the jade-quality time
Của những ngày yêu nhau
Of the days of us loving each other
Đã chết ngay từ lúc
that died right away at the moment
Em nhận được tin sầu
when I received the dreadful news
Anh tặng em mùi máu
You gave me the smell of blood
Trên áo trận sa trường
still lingering on your battle dress
Máu anh và máu địch
your blood and the enemy’s blood
Xin em cùng xót thương
and asked me to have pity on both
Em tặng anh mây vương
I gave you the hanging clouds
Mắt em ngày tháng hạ
the eyes of mine of summer days
Em tặng anh đông giá
I gave you the wintry freeze
Giữa tuổi xuân cuộc đời
In the middle of the spring of life
Anh tặng môi không cười
you gave me non smiling lips
Anh tặng tay không nắm
you gave me unclenched hands
Anh tặng mắt không nhìn
you gave me non seeing eyes
Một hình hài bất động
A totally non-moving form
Anh muôn vàn tạ lỗi
I beg you I beg you to pardon me
Xin hẹn em kiếp sau
with the hope of a next life 's reunion
Mảnh đạn này em giữ
This shrapnel is for you to keep
Làm di vật tìm nhau.
as a token for us to find each other
Sài Gòn Tháng 7/ 1969
-- Trần Mộng Tú
[ Đặng Vũ Vương – Translated 4/16/2023 ]
***
Hình 11: từ trái, (1) bìa cuốn Sách Giáo khoa Văn Học Mỹ, (2) trang đầu của tác phẩm với thủ bút của nhà thơ Trần Mộng Tú tặng người viết, 3) trang tiểu sử, giới thiệu nhà thơ Trần Mộng Tú; (4) trang thơ tiếng Anh “Quà Tặng Chiến Tranh” với hai tấm hình tìm thấy được trên xác của một tử sĩ Bắc quân. American Literature Textbook, Glencoe/ McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Hình 12: Trần Mộng Tú 1994 [photo by Lê Phúc]
2003 LOS ANGELES: THE ETHNIC PULITZERS
Hình 13: Năm 2003, Trần Mộng Tú được The New
California Media (NCM) trao giải thưởng báo chí
cho bài “Bình Luận”: Một chốn Bình an / A Safe Place,
đã được đăng trên tờ nguyệt san Phụ Nữ Gia Đình.
Giải thưởng đặc biệt này còn có tên gọi là “The
Ethnic Pulitzers”. [nguồn: tư liệu TMT].
Hình 14: hình chụp 2002 tại tòa soạn nhật báo Người Việt,
từ trái Minh Phú, Đỗ Quý Toàn, Trần Mộng Tú, Bùi Bích Hà,
Hoàng Vĩnh, Phạm Phú Minh. Cũng là thời gian Trần Mộng Tú
đang làm chủ bút Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở
California, cùng với nhà văn Bùi Bích Hà làm Chủ nhiệm
(2002 - 2005). [tư liệu NT Ngọc Dung].
*
Hình 15: Bìa Tuyển tập Thơ Song ngữ Nàng Thơ Ngạo Mạn /
The Defiant Muse, do The Feminist Press at the City University
of New York xuất bản 2007, có duy nhất một bài thơ Trần Mộng
Tú “Con Mèo Cô đơn – The Lonely Cat”.
HỘI NGỘ AP 36 NĂM SAU: SAIGON 1975 - LITTLE SAIGON 2011
Năm 2011, tại hải ngoại, lần đầu tiên có một buổi hội ngộ các cựu nhân viên Văn Phòng Associated Press Saigon tại tòa báo Người Việt, Little Saigon, California.
Hình 16: Năm 2011, tại hải ngoại có một buổi họp mặt các cựu
nhân viên Văn Phòng Associated Press Saigon tại tòa báo Người Việt,
Little Saigon, California. Từ trái: Neal Ulevich ( AP), Terry Wolkerstofer
(nhà báo tự do), Carl Robinson (AP ), Trần Mộng Tú (AP) và Frank
(chồng TMT), Phương Dung Robinson (vợ Carl), Đặng Văn Phước, áo
khoác đen (phóng viên nhiếp ảnh AP), Murray Fromsen (nhà báo tự do),
Linda Deutch (nhà báo tự do), Valerie Komor (nhà báo tự do), Nick Út
(phóng viên nhiếp ảnh AP), Edie Lederer (nhà báo tự do), Dick Pyle
(Trưởng phòng Thông Tấn AP) và vợ; người ngồi phía trước cầm tấm
hình là Lư Xây (chuyên viên phòng tối rửa hình của AP).
[Tư liệu và ghi chú của Trần Mộng Tú].
2016 ĐỐT HÌNH ĐÁM CƯỚI VÀ ĐÁM TANG
*
Hình 17: Đốt hình đám cưới, đốt hình đám tang ngày 31/10/2016, trong giàn giụa nước mắt,
rũ bỏ kỷ niệm, trả về với “tro than” trong sân nhà Chị Bùi Bích Hà. [tư liệu TMT].
2009 CÔ GÁI TRONG HÌNH CÓ PHẢI TÔI KHÔNG?
Có người gửi tôi tấm hình trên mạng
cô gái Sài Gòn áo trắng khăn tang
đi trong Sài Gòn bốn mươi năm cũ
cô gái trong hình có phải tôi không?
Ô hay tại sao tự nhiên tôi nhận
Sài Gòn cả trăm cô gái giống tôi
cả ngàn khăn tang trên đầu góa phụ
góa phụ còn hồng một vệt son môi
Ô hay tại sao tự nhiên tôi chối
Sài Gòn ngày ấy trắng toát khăn tang
những cô trẻ lắm mắt đầm đìa lệ
theo tay ai dắt đi vào nghĩa trang
Sài Gòn bây giờ khói nhang đã tắt
góa phụ ngây thơ tóc đã phai xanh
nhìn lại tấm hình nhận ra cô gái
khẽ gọi tên cô Trần Thị Chiến Tranh.
-- Tmt 30/ 04/ 2009
VẪN VỚI MỘT CHỮ NẾU
Nếu mùa Xuân có thật
Em sẽ quên tất cả những mùa khác
Nếu anh sống sót trở về
Em sẽ quên như chưa hề có chiến tranh.
-- tmt
2023 NHƯNG RỒI VẪN CỨ MÃI MỘT BÀI THƠ THÁNG 4 Ở ĐÂY
Hôm qua
ở đây là ngày đầu mùa xuân
tờ lịch rơi xuống một nụ đào
Tháng Ba sắp hết
Tháng Tư như lệ sắp trào
Tháng Ba ở quê tôi năm đó
thành phố nào thảng thốt
con đường nào chảy máu
bãi biển nào oan khiên
Một người lính vừa tự kết liễu đời mình
Giày trận có linh hồn
nón trận có khối óc
áo nhà binh có gói một trái tim
tất cả phủ trên anh
thành một bài “Truy Điệu”
Tháng Ba
người giẫm đạp lên nhau
chiếc thuyền lao ra biển
tiếng kêu thất thanh
tiếng khóc như cánh chim bay lạc
Tháng Ba
con chạy về tìm Mẹ
Con đi đi
Mẹ già rồi ở lại
Tháng Ba
Chồng chạy về tìm vợ
Em đi đi
Các con đi đi
Anh là lính
Anh ở lại
Thế là Mẹ mất con
Không biết mất nơi nào
Thế là vợ mất chồng
Không biết mất ở đâu
Tháng Tư
cả nước mất nhau
mất tất cả
không còn gì
Vật ngoài thân
thời gian tìm lại được
Nhưng mảnh vỡ trong tim
đã rơi dần từng mảnh
ngay bước đầu tiên
trên con đường di tản
không bao giờ tìm lại được
Người di tản
của bất cứ quốc gia nào
trái tim cũng mất dần từng mảnh
nên khi chết
họ chết với một trái tim không nguyên vẹn
có người chết
với lồng ngực rỗng
họ mất nguyên cả trái tim
Tháng Ba ở đây vào Xuân
tháng Tư đầy hoa đào nở
mỗi đóa hoa như một giọt nước mắt hồng
rơi xuống trái tim tôi.
– tmt
(Vào Xuân 3-20-2023)
THƠ VÀ CHỮ TMT: MỘT SUỐI NGUỒN TƯƠI TRẺ
-- NGÔ THẾ VINH
Little Saigon, Fourth of July 2023
Tham Khảo:
1/ Visions of War, Dreams of Peace. Writing of Women in the Vietnam War. Warner Books, New York 1991
2/ Shrapnel in The Heart. Letters and Remembrances from the Vietnam Veterans Memorial. Laura Palmer. Vintage Books, New York 1987.
3/ American Literature Textbook, Glencoe/ McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000
4/ NPR* Celebrated Military Nurse, Poet Revealed as a Fraud _ September 30, 2006 https://www.npr.org/2006/09/30/6173681/celebrated-military-nurse-poet-revealed-as-a-fraud
5/ Bình Thủy 1969. Hồi ức Trần Mộng Tú. Mưa Sài Gòn Mưa Seattle. Nxb Văn Mới, California (2006).
6/ Ba câu hỏi cho Trần Mộng Tú. Phùng Nguyễn. Da Màu 27/09/2016
https://damau.org/44226/ba-cau-hoi-cho-tran-mong-tu
Tôi tình cờ được đọc bài viết này của Anh về chị Văn thi sĩ Trần Mộng Tú. Trong phần viết về những bài thơ của chị Mộng Tú đã được phổ nhạc thì có 3 bài của tôi là : 13/ Dòng Sông Đứng Lại Chờ - 14/ Ngọn Nến Muộn Màng và 15/ Tháng Tư Nhuộm Tóc. Tên tôi là Nguyễn Thanh Cảnh ( thay vì Lê Thanh Cảnh ) . Kính mong Anh xem có thể sửa sai. Tôi rất đa tạ. Ngày 15-07-2023