Hôm nay,  

Dấu ấn văn hóa truyền thống trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Sâm

20/05/202311:03:00(Xem: 2737)
Phê bình -- Nhận định Văn học

gs-nguyen-van-sam
GS Nguyễn Văn Sâm.


Nhắc đến GS Nguyễn Văn Sâm, người ta biết ông nhiều trong cương vị một nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhà sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu di sản Hán-Nôm và văn học Nam Bộ hơn là nhà văn, nhà thơ. Điều này không phải do sáng tác của ông chưa chín, mà có lẽ chính sự đóng góp quá lớn của ông ở mảng khảo cứu, dịch thuật Hán-Nôm đã làm che khuất những tác phẩm văn chương giá trị của ông.
    Bên cạnh hàng chục công trình biên khảo, dịch thuật, chú giải chữ nghĩa Hán học trong các tác phẩm Nôm, GS Nguyễn Văn Sâm còn là tác giả của hàng trăm truyện ngắn, với nhiều chủ đề, nội dung, không gian văn hóa, thời gian văn hóa khác nhau. Và dù, các tác phẩm của ông có chủ đề, nội dung phong phú nhưng hầu như tất cả cùng chung một giọng văn đậm chất Nam Bộ. Đọc văn của Nguyễn Văn Sâm gợi chúng ta nhớ tới giọng văn của Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng… Và hơn thế nữa, ở đó là một tấm lòng thiết tha với văn hóa cổ truyền, với quê hương, với giống nòi. Như vậy, ngỡ sáng tác và nghiên cứu là hai mảng đối lập trong sự nghiệp văn học của GS Nguyễn Văn Sâm, song thiết nghĩ, cả hai mảng đều có sự liên kết thống nhất, quán thông tôn chỉ, mục đích. Tư tưởng của ông là bảo tồn vốn văn hóa truyền thống của dân tộc.
    Sài Gòn xưa qua những áng văn chương, báo chí thường được thể hiện qua hai mặt: một mặt hoa lệ, pha trộn nhiều nền văn hóa ở trung tâm và một mặt thuần túy văn hóa truyền thống Việt Nam, thường ở những vùng ngoại ô. Và với Nguyễn Văn Sâm, khi cảm thức về Sài Gòn xưa, ông thường chú ý nhiều ở mặt thuần túy tính cách văn hóa Việt Nam, như là một cách lưu giữ nét sinh hoạt truyền thống trong truyện ngắn của mình.
    Trong Biển trời lai láng, ông viết: “Điều dễ thương đối với tôi cũng bình thường thôi.  Thường là những căn nhà ở vùng Bà Chiểu, Thủ Đức, ba gian hai chái, vách bổ kho, mái ngói âm dương, cột danh mộc tròn lên nước bóng lưỡng dựng chững chạc trên từng tảng đá xanh vuông vức, trong nhà đối liễn vẫn còn treo trên những vị trí trang trọng. Hay một cái bàn “ông Thiên” giữa trời thường thấy ở vùng Giồng Ông Tố với hình ảnh người chủ gia đình, lúc vừa chụp tối, bận áo bà ba hai tay chấp nắm nhang xá xá bốn phương trời. Hoặc một cái gáo dừa gắn cán dài úp trên lu nước dựng ngoài mái hiên bắt gặp thường xuyên từ khoảng Cầu Hàn đổ ra đến nửa đường đi Nhà Bè hay từ phía Phú Lâm đổ lên Gò Đen. Có những hình ảnh nhỏ hơn và tầm thường hơn như tiếng võng đưa kẽo kẹt vào lúc giữa trưa trời đứng gió. Võng phải treo phía trên một cái giường tre khập khễnh mới đúng điệu, hòa hợp với cảnh trí xa xa là một bụi tre mà ngọn và tất cả lá đều đương đứng im lìm trầm ngâm ngó trời như thường thấy ở xóm Cầu Tre trước đây…” (Trích Biển trời lai láng).
    Qua cách tả khá chi tiết, với lời văn dung dị, dễ dàng cho người đọc hình dung đến một không gian sinh hoạt Sài Gòn ngoại ô xưa: một nét đẹp hài hòa cả về văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần.
    Xưa Xuân Diệu từng nói: “Ai đem phân chất một mùi hương”! Làn hương, tác phẩm văn chương không ai có thể phân tích tính chất và định lượng hay dở rạch ròi. Viết thế nào là hay, viết thế nào là dở, còn tùy thuộc vào “tầm đón đợi” của người đọc. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, đã là “văn chương từ tảo” thì nhất định phải đẹp, phải thơm, như làn hương mà Xuân Diệu nói, không ai có thể phân chất được, nhưng có thể lan tỏa khắp đến mọi người. Cái đẹp, cái hương thơm trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Sâm mà chúng tôi muốn nói đến ở đây chính là nơi lưu giữ và giáo dục luân lý và đạo đức làm người. Có thể lấy tình yêu cao cả, bao dung của người từ mẫu trong truyện ngắn Chuyện mẹ nhân ái làm ví dụ. Chúng tôi xác tín rằng, chính tình mẹ thiêng liêng trong truyện ngắn này sẽ giúp làm thức tỉnh trái tim của biết bao người con mê lầm: “Ôi nghiệm ra rằng, má ta là Đức Bồ Tát của ta, là sự Từ Bi rót lên đời ta ngay từ lúc mới sơ sanh để ta sống sót. Phật Bà nói chung là má của tất cả mọi người. Má của người nào là Phật Bà mà chỉ có đứa con mới cảm nhận được thôi. Gần đất xa trời tôi mới cảm nghiệm được chơn lý đơn giản nầy. Tiếc quá! Tiếc nhưng biết làm sao hơn, nhân loại sanh ra để va vướng vào những mê lầm muôn thuở mà dầu ta có học xong bài học và được phép mầu làm cho trẻ lại nhiều lần đi nữa thì cũng mắc mê lầm lại y chang như cũ, cũng hờ hững và không thấu được lòng mẹ bao la…..” (Trích Chuyện mẹ nhân ái).
    Tình yêu là vấn đề muôn thuở của nhân loại. Những câu chuyện lịch sử đúng sai của ngàn đời, như Dương Thận nói, “Cũng chỉ rút lại vào câu chuyện phiếm bên chén rượu” (“Cổ kim đa thiểu sự/ Đô phó tiếu đàm trung”). Cái còn đọng lại muôn đời là tình yêu: tình yêu giữa người với người và tình yêu lứa đôi. Trong truyện ngắn Ao Bà Om cạn nước, Nguyễn Văn Sâm đã cổ động cho chúng ta thêm niềm tin yêu vào tình yêu thủy chung, son sắt. Qua hình ảnh ao Bà Om cạn nước, tác giả đã gửi gắm vào đó thông điệp: tình yêu trong mạch đập trái tim con người còn cao hơn cả lời thề, bền bỉ trường cửu hơn cả sự biến thiên của tạo vật. Dù cho người xưa có tin vào sự bất biến của thiên nhiên để lấy đó làm điểm tựa cho lời thề rằng: “Chừng nào cạn nước Ao Vuông/ Nhập chìm Long Trị mới buông lời thề”, thì đến khi cái ao vuông – tức ao Bà Om đó có thật sự cạn đi chăng nữa, thì tình yêu xuất phát từ trái tim vẫn vẹn nguyên, thuần khiết.
    Ngôn ngữ, hay nói cách khác, tiếng nói chính là văn hóa, là máu thịt của một xứ sở, một con người. Không phải ngẫu nhiên mà bất cứ ai cũng xúc động cõi lòng khi đọc câu thơ: “Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi/ Hương âm vô cải mấn mao tồi” (Tuổi trẻ ra đi, già mới về/ Dù râu tóc đã bạc, nhưng giọng quê vẫn không đổi) của Hạ Tri Chương đời Đường! Thiết nghĩ, “giọng quê vẫn không đổi” trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Sâm (dù sau bao nhiêu năm bôn ba nơi xứ người), cũng chính là dụng ý của tác giả. Qua truyện ngắn của mình, Nguyễn Văn Sâm đã lưu trữ, bảo tồn được rất nhiều phương ngữ Nam Bộ. Có thể kể ra như: “chút xíu”, “ngó qua”, “bắt mắt”, “ẩu xị”, “nhón chưn”, “giựt”, v.v… Ngoài việc sử dụng lời ăn tiếng nói hằng ngày của người Nam Bộ, nhà văn Nguyễn Văn Sâm còn luôn “tìm cách” đan cài những câu phong dao, ca dao Nam Bộ vào trong tác phẩm của mình, như: “Mẹ mong gả thiếp về vườn/ Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh”; “Rực vàng bông bí sau vườn/ Thương em không dám leo tường cũng leo”; “Bông bí vàng lườm trong chùm xanh lá/ Anh ngắm em hoài sợ má em la”;  “Bụng dài như trái bí đao/ Nằm không ăn mãi ruộng sào cũng bay” (trong truyện Ca dao tập tàng); “Bần gie đom đóm đậu sáng ngời/ Lỡ duyên tại bậu trách trời sao đang” (trong truyện Ao Bà Om cạn nước), v.v…
    Có thể nói, GS Nguyễn Văn Sâm là người đa tài và thành công trên nhiều cương vị. Và dù ở cương vị nào, ông cũng nhất quán một mục tiêu là giữ gìn văn hóa truyền thống của dân tộc. Chúng tôi mạn phép nghĩ rằng, yêu nước có nhiều cách, song yêu nước qua việc tìm về cội nguồn dân tộc, giữ gìn và chấn hưng văn hóa truyền thống có lẽ chính là tình yêu nước sâu sắc nhất!
    Các nhà nghiên cứu trước đây khi viết về GS Nguyễn Văn Sâm, đều dành cho ông những mỹ từ trang trọng. Chẳng hạn, TS Hoàng Kim Oanh xác định vị trí đáng kể của ông trong dòng chảy văn chương Nam Bộ qua bài “Nguyễn Văn Sâm và dòng chảy văn chương Nam Kỳ Lục Tỉnh”; TS Nguyễn Văn Trần gọi ông là “Người giữ hồn dân tộc”; Nhà nghiên cứu Phan Tấn Hải tôn ông là “Người giữ hồn của nước”, v.v… Riêng tôi, dù chưa có vinh dự được GS đứng trên bục giảng dạy cho buổi nào, nhưng tôi luôn cung kính gọi ông bằng Thầy – chữ Thầy viết hoa. Bởi tôi học tập ở ông rất nhiều, không chỉ qua những công trình khảo cứu và dịch thuật Hán-Nôm mà còn học tập thái độ làm việc cần mẫn, vô vụ lợi của một nhà nghiên cứu văn hóa truyền thống và một nhà văn đúng nghĩa “nhà văn” – rút ruột nhả tơ ra những áng văn chương nhằm chuyên chở những giá trị văn hóa truyền thống, tô điểm cho đời thêm lấp lánh, ngát hương.
 

– Nguyễn Thị Bích Đào

(Trung tâm Nghiên cứu Quốc học)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhã Ca làm thơ trước khi viết văn, chị làm thơ từ Huế và khi vào trong Nam chị mới bắt đầu viết văn cùng anh Trần Dạ Từ – cũng là một thi sĩ nổi tiếng với những bài “thơ Tình”. Không biết hai anh chị yêu thơ của nhau trước rồi mới yêu người hay yêu người rồi mới bật ra thơ. Nhưng phải nói là cả hai người làm thơ này đã là hai tác giả nổi tiếng về “thơ Tình” cho những người đang yêu nhau từ thời 1964 cho đến bây giờ. (Nếu người ta còn thích đọc “thơ Tình” như tôi.)
Phạm Duy từng là một anh bộ đội. Phạm Duy từng là một văn nghệ sĩ, một cán bộ văn hóa, phục vụ khắp các chiến trường những năm đầu cuộc Kháng chiến chống Pháp, từ 1945 đến 1951. Chỉ sau hai năm đầu toàn dân cùng một lòng chung nhau chống Pháp đã bắt đầu có sự phân rã, vì lý do ý thức hệ tư tưởng chính trị. Những thành phần Quốc gia hiểu ra họ cần một môi trường chống Pháp không cùng hàng ngũ với Mặt trận Việt Minh. Từ 1947, đã có phong trào dinh tê [rentrer, trở về]. Người Quốc gia cùng nhau rời bỏ hàng ngũ kháng chiến để trở về thành phố, những vùng có quân Pháp chiếm đóng. Năm 1948 đã hình thành Lực lượng Quốc gia Việt Nam, có chính phủ và quân đội riêng, nằm trong khối Liên Hiệp Pháp. Vua Bảo Đại đứng đầu.
Chúng tôi chào đời vào buổi không mấy vui. Cái vui chưa đúng là vui, không đáng nhớ. Cái buồn đi lố cái gọi là buồn, phải kèm thêm từ “thảm”. Trốn đi đâu cũng chẳng thể ra ngoái nỗi nhớ. Cuộc đời thì dài dặc, niềm vui biến đâu mất tiêu. Cứ nghe cha đêm khuya thở dài. Mẹ ru con toàn nỗi nhớ // Chiều chiều ra đứng ngõ sau / nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều // Nhớ ai không nhớ, nhớ người thất thế sa cơ // Chiều chiều én liệng truông mây / cảm thương chú Lía bị vây trong thành //
Chúng ta đều rõ là Âu, Mỹ đón Tết Dương Lịch mỗi năm vào ngày 01.01. Hằng năm, người Á Châu nói chung và người Việt Nam nói riêng đều đón Tết theo Âm Lịch. Như vậy người Á Chân có dịp mừng Năm Mới đến hai lần.
LTS: Trải dài suốt mấy thế hệ, từ thời kháng chiến chống Pháp, cuộc chiến hai mươi năm, và rồi tha hương, tên tuổi Phạm Duy luôn luôn gắn bó với tình tự dân tộc, là một huyền thoại trong khu làng âm nhạc, văn nghệ Việt Nam. Hiếm ai trong chúng ta không cảm thấy lòng dạt dào yêu quê Mẹ Việt Nam hơn khi nghe nhạc và ca từ của Ông. Cả một cuộc đời dài sáng tác, Ông đã để lại cho đời sau một gia sản tinh thần khổng lồ với “ngàn lời ca” mà có lẽ trước và sau Ông khó ai bì kịp. Đúng ngày này 10 năm trước, ngày 27 tháng 1 năm 2013, người nhạc sĩ nổi trôi cùng mệnh nước 93 năm đã kết thúc cuộc hành trình “trên đường về nơi cõi hết”. Nhân ngày giỗ Ông năm thứ 10, Việt Báo hân hạnh đăng tải dưới đây loạt bài của nhà văn Cung Tích Biền. Loạt bài gồm 4 phần, mỗi phần là cái nhìn ở mỗi chặng đường soi giọi bước chân của người nhạc sĩ.
mưa bụi lướt về trong mơ ướt sũng một thời trí nhớ thì thầm cổ tích như thơ bay vào trong con giấc ngủ mẹ ru con lời dịu dàng nguyện cho mưa về tốt lúa nguyện cho khắp cõi bình an nguyện người người xa nhà lửa
Sinh thời, Hemingway, tác giả của “Ngư ông và biển cả” vào bất cứ lúc nào cũng có nuôi chừng vài chục con mèo. Ngôi nhà của ông ở Key West, Florida, trở thành viện bảo tàng có khoảng 40 cho đến 50 con mèo sáu ngón (polydactyl cat). Tất cả đều được đặt tên của những nhân vật nổi tiếng. Đám mèo sáu ngón này là hậu duệ của con mèo Snow White do một vị thuyền trưởng tặng cho Hemingway.
... Nếu thế thì mỗi bài thơ là một sự cách tân, mỗi thi sĩ là một người làm mới sự vật. Có những điều chỉ ngôn ngữ thi ca mới nói được, chỉ thi ca mới có cái “thần” giúp chúng ta thấu thị tận đáy sâu của bản ngã. Người làm thơ là người nắm trong tay quyền năng “soi sáng” sự vật, quyền năng cho sự vật một đời sống mới, quyền năng “đi vào linh hồn của sự vật[1],” và không ai có thể tước đoạt quyền năng đó từ tay hắn...
Ngày nay nhân loại có quá nhiều thú vui không kể xiết. Người ta tìm kiếm, ngụp lặn trong thú vui và cho đó là hạnh phúc. Nhưng này bạn ơi, Thú vui không phải là hạnh phúc, Mà nhiều khi nó là nguồn gốc của khổ đau. Niềm vui lớn nhất của nhân loại ngày hôm nay.
Cuộc Thi Viết Văn Ứng Dụng Phật Pháp 2022 là một sự kiện hy hữu. Đây là giải thi viết đầu tiên ở hải ngoại để mời gọi viết bài hoằng pháp. Cũng là những hy sinh rất lớn của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Trưởng Ban Tổ Chức Cuộc Thi, một công trình rất nặng nhọc và rất tốn nhiều thì giờ. Điểm hy hữu là: Chùa Hương Sen được thành lập ở thị trấn Perris, California, từ tháng 4/2010, vậy mà 12 năm qua chưa xây xong chánh điện vì nhiều lý do, bây giờ đã tổ chức được một cuộc thi viết văn gây nhiều tiếng vang toàn cầu. Ngay cả khi chánh điện bằng gạch cát xi măng chưa xây xong, một chánh điện bằng chữ đã hình thành trong tâm của nhiều ngàn người quan sát Cuộc thi này trong hội trường và trên livestream. Không chỉ như thế, hy hữu là rất nhiều bài viết gửi về dự thi đều hay tuyệt vời, nêu lên được những trải nghiệm gian nan và hạnh phúc của người con Phật.