Hôm nay,  

Nhà Văn Điệp Mỹ Linh & Hải Quân VNCH Ra Khơi, 1975

07/12/202009:23:00(Xem: 3510)

Vuong Trung Duong

Hầu hết các tác phẩm viết về Quân Binh Chủng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QL/VNCH) xưa nay đều do những tác giả đã từng phục vụ trong đơn vị mới am tường để ghi vào trang Quân Sử… Tác phẩm Hải Quân VNCH Ra Khơi, 1975 của nhà văn nữ Điệp Mỹ Linh được coi là tài liệu lịch sử rất đáng quý.

Những tác phẩm khác của nhà văn ĐML đã ấn hành: Dáng Xưa, Chỉ Còn Là Kỷ Niệm, Trăng Lạnh, Tìm Vết Chân Xưa, Sau Cuộc Chiến, Một Đọan Đường, Đưa Tiễn, Cuồng Lưu, Bước Chân Non, … Còn nhiều bài viết chưa in thành sách trong thời gian qua.

Nhà văn Điệp Mỹ Linh ở Nha Trang là phu nhân của cố Hải Quân Trung Tá Hồ Quang Minh, khóa 8 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Cựu Trung Tá Minh qua đời năm 2014 tại Texas.

Cuộc tình của nhà văn ĐML với HQ Trung Úy Hồ Quang Minh vào đầu thập niên 60 khi Trung Úy Minh phục vụ tại Duyên Đoàn 26, đóng tại Bình Ba, trong vịnh Cam Ranh. Thời điểm nầy, theo lời chia sẻ của ĐML: “Mỗi ngày, ngoại trừ Thứ Bảy, Chủ Nhật, tôi đi bộ xuống làng Bình Ba để dạy các em học sinh – miễn phí. Hè và những ngày Lễ, tôi theo đoàn ghe đi kích hoặc hành quân”. Và, từ đó bà theo chồng phục vụ Giang Đoàn 23 Xung Phong tại Vĩnh Long, Giang Đoàn 30 Xung Phong, hậu cứ trong Trại Cửu Long, Thị Nghè. Giang Đoàn 30XP trở thành một trong những đơn vị tác chiến Hải Quân tham gia những cuộc hành quân hỗn hợp, tham dự các cuộc hành quân Tam Giác Sắt tạo được nhiều chiến công hiển hách…

Khi theo chồng thuyên chuyển về Giang Đoàn 26 Xung Phong, hậu cứ tại Long Xuyên, theo lời ĐML: “Chính tại Vùng IV Sông Ngòi tôi mới thấy rõ lòng quý mến và tin tưởng của quân nhân Địa Phương Quân đồn trú trong các đồn rải rác dọc những bờ sông hoang vắng dành cho quân nhân thuộc các đơn vị tác chiến Hải Quân. Tình cảm của Địa Phương Quân cộng với tinh thần ‘huynh đệ chi binh’ và lòng quả cảm đã thúc đẩy Minh – đôi khi – bất chấp cả lệnh của Tỉnh Trưởng, tự động đưa đoàn giang đỉnh đến giải cứu các đồn Nghĩa Quân khi nghe lời kêu cứu của họ!...

Thời gian Giang Đoàn 26 Xung Phong được lệnh chuyển vùng hành quân về quận Gò Quau, Chương Thiện, tôi phải trở về Sài Gòn lo việc gia đình. Minh điện thoại cho tôi hay rằng Minh đã gặp Thiếu Tá Phép, Quận Trưởng quận Gò Quau và Phó Quận Hành Chánh mà tôi không nhớ tên. Khi nói chuyện, ông Phó Quận Hành Chánh hỏi Minh rằng có phải tên thật của Điệp Mỹ Linh là Thanh Điệp hay không? Nếu đúng thì ngày trước ông Phó Quận Hành Chánh cùng học với tôi tại trường trung học Võ Tánh Nha Trang và ông Phó Quận Hành Chánh biết tôi chơi đàn Accordéon. Vậy là hai ông yêu cầu Minh bảo tôi đem Accordéon theo khi tôi trở lại vùng hành quân để chung vui với dân làng và mọi người trong dịp Tết… Khi dân làng tề tựu trong sân Quận thì Việt cộng pháo kích. Mọi người chạy tán loạn. Minh ra lệnh đoàn chiến đỉnh phân tán mỏng, tìm địa điểm của Việt cộng để phản pháo. Bị Hải Quân phản pháo, VC ngưng pháo kích. Trên giang hành trở lại Quận, Minh gọi các chiến đỉnh xem ‘Thủy Thủ không số quân” đang ở trên chiếc nào? Không ai thấy tôi cả! Thấy Minh có vẻ lo, anh truyền tin pha trò để Minh cười cho vui: ‘Chắc Thủy Thủ của Chỉ Huy Trưởng…đào ngũ rồi!’ Minh cười gượng: ‘Mẹ, Bả mà đào ngũ, ai nuôi con tao, mày!’ Rồi Minh liên lạc vô tuyến với Thiếu Tá Phép để hỏi về tổn thất nhân mạng và cũng để tìm tôi. Thiếu Tá Phép cho biết “tụi nó pháo trật lất” và “Thủy Thủ không số quân” bình yên, đang ngồi trên nền xi măng vì không nỡ bỏ cây đàn Accordéon!...

… Những kỷ niệm về sự ‘trình diện’ của ‘Thủy Thủ không số quân’ tưởng đã chìm sâu trong quá khứ; vì tôi hoàn toàn không nhớ được. Nhưng, trong tang lễ của Minh, khi các cựu quân nhân thuộc Hội Hải Quân Houston, mặc quân phục đại lễ, đến chào tiễn biệt Minh và trao lá cờ VNCH cho tôi thì những kỷ niệm xưa cuồn cuộn dâng trào trong hồn tôi! Tôi khóc nhiều và nhận ra những kỷ niệm đó tươi đẹp, trắng xóa và sôi nổi không khác chi những lượn sóng do những chiếc fom hoặc PBR rẻ nước, lướt “vèo vèo” trên những dòng sông xưa, tạo nên…”

Trích dẫn những dòng trên với lời tâm tình, chia sẻ của nhà văn Điệp Mỹ Linh để cảm nhận bà đã hơn nửa thế kỷ gần gũi với chồng và “gắn bó” với Quân Chủng Hải Quân từ những tháng ngày chiến tranh cho đến thời gian ở hải ngoại.

Trở lại với tác phẩm Hải Quân VNCH Ra Khơi, 1975. Trong Lời Ngỏ, tác giả cho biết:

“Trong Hải Quân không hề thiếu những cây bút thừa khả năng để ghi lại những đoạn đường đầy chông gai mà tập thể ấy đã vượt qua. Nhưng sở dĩ tôi được hân hạnh làm công việc này là vì tấm lòng tha thiết của tôi đối với quân chủng này từ khi tôi trở thành ‘dâu’ của Đại Gia Đình Hải Quân.

Vì yêu thích thiên nhiên và cũng vì muốn thấy tận mắt những khía cạnh  gai góc nhất của quân chủng Hải Quân để viết bài, tôi xin tháp tùng những đơn vị chiến đấu Hải Quân.

… Nhờ thời gian dài sống cạnh những đơn vị tác chiến này tôi mới cảm nhận được tất cả nỗi đau thương của Người Lính VNCH. Và cũng nhờ thời gian này tôi mới ý thức được rằng Người Lính Hải Quân cũng chiến đấu can cường, liều lĩnh và dũng cảm không thua bất cứ một đại đơn vị tác chiến nào của Quân Lực VNCH.

… Tâm nguyện của tôi tưởng chỉ quẩn quanh trong những dòng sông nhuộm máu ở U Minh. Nhưng, đến đầu năm 1975, Người Lính Áo Trắng không những chỉ giải cứu đồn Nghĩa Quân mà Người Lính Áo Trắng còn đón cả mấy Sư Đoàn thiện chiến và cả vạn vạn đồng bào từ Vùng I và Vùng II Chiến Thuật đưa về Sài Gòn và Phú Quốc thì tâm nguyện của tôi trở nên to lớn hơn và khó khăn hơn.

Tôi muốn ghi lại những đóng góp vĩ đại của quân chủng Hải Quân như là một tài liệu lịch sử…

… Tôi nghĩ lịch sử là những sự kiện có thật, hãy để những sự việc đó tự nói lên từng trạng huống của mỗi giai đoạn. Muốn thực hiện được điều đó và cũng để giữ mức độ khách quan và vô tư của ngòi bút, tôi tránh xen vào cuốn tài liệu này những suy luận, những nhận định, những bình phẩm của bất cứ một cá nhân nào – và ngay cả của chính tôi.

… Cuốn tài liệu này là sự đóng góp tích cực và lớn lao của Đại Gia Đình Hải Quân. Tôi có ý nghĩ để tên tác giả là ‘Nhóm Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa’. Nhưng nghĩ lại, tôi nhận thấy, dù sao đi nữa, cuốn tài liệu này cũng còn nhiều khiếm khuyết; nếu ‘Nhóm Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa’ viết, có thể không có những khiếm khuyết đó. Vậy, tôi là người trực tiếp thực hiện những cuộc phỏng vấn, tham khảo tài liệu và đúc kết mọi chi tiết, xin để cá nhân tôi chịu trách nhiệm…”

Trong những bài viết của nhà văn ĐML ghi lại rất chân tình về gia đình, bạn bè ở Nha Trang và tấm lòng với những chiến sĩ QL/VNCH, nhất là Hải Quân. Một thời và một đời bên nhau với biển khơi, sông lạch… Hình ảnh đó nói lên Điệp Mỹ Linh, người con của quê hương, của Hải Quân VNCH từ lúc làm dâu của quân chủng nầy cho đến cuối đời.

*

Tác phẩm Hải Quân VNCH Ra Khơi, 1975 dày 370 trang, gồm 12 Chương. Trình bày đẹp, trang nhã, nhiều hình ảnh đính kèm.

Chương I: Sơ Lược Lịch Sử Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (Trang (1-11)

Chương II: Các Vị Tư Lệnh Hải Quân (13-19)

Chương III: Sự Tổ Chức Của Hải Quân – Về Hành Quân (21-70)

Trong Chương nầy đề cập đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Những Đại Đơn Vị Chiến Đấu, các Vùng Sông Ngòi, các Vùng Duyên Hải… ghi lại tổng quát để độc giả biết tổng quát về Hải Quân VNCH. 

Chương IV: Cuộc Đàm Thoại Bất Ngờ (71-72). Tuy chỉ 2 trang nhưng “báo động” trang sử đau thương của dân tộc.

Chương V: Những Biến Chuyển Quân Sự Và Các Cuộc Rút Quân (73-143).

Trong Chương nầy tác giả ghi lại Những Cuộc Rút Quân từ Vùng I đến Vùng V Duyên Hải… Nói lên sự dũng cảm, hy sinh, tinh thần quân dân, bao nỗi uất hận, tang thương, ngậm ngùi của thời điểm ngày tàn cuộc chiến!

Chương VI: Những Đột Biến Tại Các Vùng Sông Ngòi (145-171)   

Chương VII: Kế Hoạch Phòng Thủ (173-176)

Chương VIII: Chuyến Ra Khơi Bi Hùng (177-199)

Chương IX: Phỏng Vấn Những Nhân Vật Liên Hệ Đến Chuyến Ra Khơi (200-229)

Chương X: Những Vị Anh Hùng Hải Quân VNCH (231-242)

Chương XI: Lời Chân Tình của “Thủy Thủ Không Số Quân (243-300). Danh sách sĩ quan Hải Quân VNCH Lập Nhiều Chiến Công trong cuộc chiến 1954-1975 (243-300)

Chương XII: Những Dòng Ký Ức  (301-354) Bài viết của các vị Hải Quân. Phần Phụ Lục (355-359): Danh Sách Chiến Hạm & Chiến Đĩnh Hải Quân VNCH.


Vuong Trung Duong 02
Năm 2003, anh Trần Trọng An Sơn tặng tôi quyển Hải Sử Tuyển Tập, khổ magazine, dày 592 trang được biên soạn rất công phu, đóng góp cho Bộ Quân Sử VNCH. Quân Chủng Hải Quân VNCH có nhiều văn tài đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam từ trong nước, trước năm 1975 và sau nầy ở hải ngoại. Anh cũng là nhà thơ, năm 2017 ra mắt tập thơ thứ hai Tâm Tư Người Lính Biển.  Tài liệu nầy hữu ích cho tôi để sưu tầm.

Nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa trong 11 năm qua được vinh dự đăng tải các bài viết, tác phẩm, thi ca của quý vị.

Tác phẩm Hải Quân VNCH Ra Khơi, 1975 của nhà văn nữ Điệp Mỹ Linh tuy là Tài Liệu Lịch Sử nhưng qua ngòi bút linh động của tác giả lôi cuốn người đọc như “tự truyện” qua cuốn Một Cơn Gió Bụi của cụ Trần Trọng Kim, Bên Giòng Lịch Sử của Linh Mục Viện Trưởng Đại Học Huế Cao Văn Luận… Điều đặc biệt ở đây là nữ giới, “người không có số quân” đã viết lại trang sử.

Được biết cô nữ sinh Thanh Điệp là một trong những  thành viên của ban ca nhạc Bình Minh, được thành lập vào giữa thập niên 50, để phụ trách phần ca nhạc cho Đài Phát Thanh Nha Trang. Trưởng Ban Bình Minh – Cụ Điệp Linh Nguyễn Văn Ngữ – là thân Phụ của Thanh Điệp. Thanh Điệp cũng được thân phụ dạy viết văn, dùng bút hiệu Điệp Mỹ Linh để tưởng nhớ công ơn của bậc sinh thành.

Kể từ khi khởi viết vào năm 1961, có bài đăng trên Đuốc Thiêng, Tin Sáng và Tia Sáng… cho đến nay tròn 6 thập niên. Thời chinh chiến, anh Hồ Quang Minh thích và đồng tình với tinh thần văn nghệ của chị. Nhưng, trong những lần trò chuyện qua email với chị, chị cho biết, anh không thích chị viết, hát và đàn… tôi cũng hơi ngạc nhiên nhưng tế nhị không hỏi vì sao? Qua tìm hiểu, tôi nghĩ anh cũng như nhiều vị tướng lãnh, sĩ quan khác, cho rằng mất nước là mất tất cả! Anh HQM là chiến sĩ can cường, lập được nhiều chiến công (Bảo Quốc Huân Chương) và (theo chị), anh “ba gai”, nhiều lần cãi với thượng cấp; nhưng anh rất thương và bảo vệ thuốc cấp… nên đường binh nghiệp của anh không may mắn.

Tôi gọi chị Điệp Mỹ Linh “Nhà văn không có số quân” nữ giới đã viết nhiều về người Lính VNCH.

Little Saigon, Dec 2020

Vương Trùng Dương



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viết lách không là nghề mà là nghiệp, đã là nghiệp thì muốn cũng không được mà không muốn cũng không xong. Những kẻ mang nghiệp chữ, những tay du tử đam mê viết lách là những kẻ khổ dâm. Nếu bọn khổ dâm chỉ sướng khi bị mắng chửi, đánh đập, hành hạ… thì những kẻ viết lách cũng thế, ngày đêm suy nghĩ tìm ý, lao tâm khổ tứ, vắt lòng nặn óc, rị mọ viết lách. Bọn khổ dâm càng bị hành hạ càng sướng thì bọn viết lách càng cực thì viết mới hay, càng bị bức bách càng viết xuất thần. Nếu những kẻ mang nghiệp chữ mà có cuộc sống phong lưu hoan lạc, đời sống phủ phê êm ấm thì khó mà viết được, ấy là chưa nói khó có thể viết hay.
Nói đến thơ xứ Quảng (Quảng Nam – Đà Nẵng) như lời của Hà Khánh Quân (Luân Hoán): “Ở cái đất ‘chưa mưa đã thấm’, chỉ cần cào nhẹ tay lên mặt đường, đã lượm được sỏi đá. Nhưng trong món quà trời cho ấy, nếu nhìn kỹ, ta sẽ thấy lẫn lộn trong sỏi đá còn có cả thơ… Phần đất nghèo nàn này, vốn rất giàu những tâm hồn thi ca, và có hơi nhiều thi sĩ”.
Mời các bạn đọc một ngụ ngôn tân thời của thi sĩ Nobel Louise Gluck. Bóng tối che đậy tội ác. Che giấu những con mèo từ rừng hoang xuống trà trộn vào thành phố. Ban ngày, chúng hiền lành. Về đêm, mèo lộng hành, bè đảng, lòng dạ hung tợn, ngay cả người cũng sợ. Chúng săn đuổi, tiêu diệt những sinh vật không có sức kháng cự. Thảm thương cho thân phận làm chuột. Ngày không dám nhìn mặt trời. Đêm la hét đau đớn dưới răng mèo sắc bén. Chết, Chuột chết la liệt đầy phố đêm. Ai biết? Biết rồi, ai nói? Trước khi trời sáng, xã hội quét dọn, đường phố sạch sẽ, không dấu vết sát thủ, nạn nhân. Mặt trời lên. Mèo hiều hậu, dễ thương, Chuột trốn nắng. Người vô tư. Nhưng rồi đêm sẽ đến, sẽ tiếp diễn máu me và định mệnh.
Bài thơ không chỉ nói đến sự thị hiện của Đức Phật trên trần gian mà còn gợi nhớ đến nhiều sự kiện lớn xảy ra trong cuộc đời của Ngài: Bồ Tát Hộ Minh từ cung trời Đẩu Suất (Cho hay Bồ tát hậu thân) đản sinh vào dòng họ Thích Ca, lớn lên trong hoàng cung (U ơ tiếng trẻ, êm đềm Vương cung), vượt thành đi xuất gia vào đêm khuya thanh vắng, sáu năm tầm đạo và tu khổ hạnh nơi rừng già (Tuyết sơn phất ngọn trăng già), thiền tọa 49 ngày đêm dưới gốc cây Bồ Đề và thành tựu đại giác ngộ và đại giải thoát vào lúc sao mai vừa mọc (Nhìn sao mà ngỏ sự tình / Ai người Đại Giác cho mình quy y), 45 năm vân du giáo hóa chúng sinh để “nâng cõi thế qua bùn tử sinh.”rong lịch sử nhân loại không thiếu những đấng tôn sư, những bậc hiền triết đã nhìn thấy được bản chất của cuộc đời là vô thường như triết gia Hy Lạp Heraclitus, người sống vào khoảng 500 năm trước tây lịch, đã cho rằng tất cả mọi vật trên đời đều vô thường và không có gì tồn tại mãi. Ông so sánh mọi sự vật hiện hữu với dòng nước sông chảy,
Ở tỉnh lẻ, cọp sách nín thở. Không thể minh họa bằng cử chỉ hoặc âm thanh. Phải giữ thái độ tử tế, nho nhả, để có thể trở lại đọc tiếp. Có lần, tôi đọc Alexis Zorba, Con Người Chịu Chơi, của NikosKazantzaki, dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu, đến đoạn Zorba ví mông phụ nữ Nga, nở nang, cứng cáp, như mông ngựa cái và nó hí lên khi ngửi được mùi ngựa đực. Tôi ngạc nhiên. Lúc đó, biết mông phụ nữ một cách mù mờ, nhưng biết mông ngựa rất rõ, thành thử tưởng tượng lẫn chiêm bao đều hấp dẫn. Nhưng phụ nữ Việt ít ai hí, hầu hết nghe mùi đực phản phất là bỏ đi. Đôi lúc không kịp giã từ. Đọc hết đoạn Zorba không thể nói tiếng Nga, nên nhảy ra sân múa máy, nhào lộn. diễn tả câu chuyện ông muốn kể. Thật là lý thú. Tôi cũng muốn nhảy ra múa máy nhưng kịp nhìn thấy ánh mắt của bà chủ lăm le chờ bằng cớ.
Hai ngày trước đây, nhà văn Vương Trùng Dương có chuyển cho tôi bài tường thuật của nhà văn Phạm Tín An Ninh về chuyến viếng thăm anh tại Cali. Đọc bài tường thuật và nhất là nhìn hình anh chụp chung với GS Trần Huy Bích và PTAN, tôi không dằn được xúc cảm. Nhất là khi anh tỏ thái độ rất thản nhiên trước ngưỡng cửa tử thần.
Sinh hoạt với Gia Đình Phật Tử Kim Quang từ lúc còn bé, tâm hồn Thụy An đã được tưới tẩm chất thơ qua ca dao lời ru của Mẹ, qua tiếng hát và lời kinh trong sinh hoạt đầy đạo hạnh và êm đềm của tuổi trẻ Phật tử dưới mái hiên chùa. Chất liệu và suối nguồn thi ca nầy đã thể hiện trong lời nói của Alexandra Huynh với phóng viên quốc tế: “Tiếng Việt tự nó đã là một tiếng nói giàu chất thơ. Trong sinh hoạt văn hóa của người Việt người ta đã nói thành thơ trong cuộc sống hằng ngày.”
Trong khi các nhóm tôn giáo cực đoan đôi khi đã phỉ báng Thiền, thì sự thật một cách khoa học Thiền đã được chứng minh có nhiều hiệu quả tích cực trên lãnh vực tinh thần và thể chất khi Thiền được thực hành đều đặn. Sau đây là một số lợi ích của Thiền. Trên khắp thế giới, lo lắng vẫn là một trong những điều kiện sức khỏe tinh thần hàng đầu. Dù trong nhiều trường hợp nghiêm trọng các bác sĩ có thể viết toa thuốc để giúp những người bị lo lắng, họ thường có khuynh hướng thử biện pháp tổng thể hơn trước. Thiền là một trong những cách tổng thể thông thường nhất để điều trị lo lắng, giúp các cá nhân giảm nhịp tim của họ, kiểm soát các suy nghĩ tai hại và ngăn chận các cơn lo lắng.Không còn nghi ngờ rằng thế giới mà chúng ta đang sống trong đó có thể là căng thẳng. Dù căng thẳng là sự phản ứng cơ thể hoàn toàn bình thường, chúng ta không nên cảm thấy bị căng thẳng thường xuyên vì căng thẳng liên tục có thể gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng trong cơ thể. Thiền là cách tuyệt vời để thư giãn
Trước đây, Thường Thấu Thấm thuộc về giả thuyết thưởng ngoạn và sáng tác. Tuy nhiên, dịch thuật cũng mang cấu trúc cơ bản của ngôn ngữ và ngữ pháp, được xác định minh bạch về bản chất, cá tính và chức năng, có tính toàn cầu trong hệ thống ngôn ngữ, có tính chung để thông đạt, nên giả thuyết này có thể áp dụng vào dịch thuật, song song với giả thuyết thưởng ngoạn và sáng tác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.