Hôm nay,  

Bernice Bing: những nét vẽ Thiền

11/11/202200:00:00(View: 5330)
 
__ 01 hoa si Bernce bing

Trái: Tranh “Chân dung tự họa với mặt nạ” (Bernice Bing, 1960). Giữa: Bernice Bing khoảng 1960s. Phải: Tranh “Vital Energy” (Bernice Bing, 1986)


Bà là một họa sĩ độc đáo. Nói độc đáo bởi vì, bà nổi bật trong kiểu rất riêng, với tài năng và đời sống không hề giống ai hết. Họa sĩ Bernice Bing (1936-1998) là một họa sĩ người Mỹ gốc Hoa, đồng tính nữ, hoạt động trong làng nghệ thuật Vùng Vịnh San Francisco Bay trong thập niên 1960s, có ảnh hưởng từ nền văn hóa Beats – kiểu phóng khoáng hippies có chất phản kháng xã hội – trong khi bản thân họa sĩ Bing chịu ảnh hưởng Thiền Tông, và đưa ảnh hưởng Thiền vào nét vẽ trừu tượng thư pháp mà Bing ảnh hưởng sau khi học với họa sĩ Nhật Bản Saburo Hasegawa. Làm thế nào trong một họa sĩ lại có rất nhiều yếu tố thiểu số như thế: gốc Á châu, đồng tính nữ, văn hóa Beats, và nét vẽ Thiền Tông?
 
Vậy mà, trong nhiều thập niên vừa qua, con người và tác phẩm của họa sĩ Bernice Bing y hệt như tàng hình. Cho tới bây giờ, gần ¼ thế kỷ sau khi từ trần năm 1998, Bing lại được vinh danh ở bảo tàng viện Asian Art Museum với cuộc triển lãm nhan đề “Into View: Bernice Bing” (Vào điểm nhìn: Bernice Bing) --- nơi đây triển lãm các bức tranh, các bản vẽ, và các trang trích từ nhật ký của Bing từ thời cuối thập niên 1950s tới giữa thập niên 1990s. Cuộc triển lãm hiện đang diễn tiến và sẽ kết thúc vào cuối tháng 5/2023.

__ 02 Bernice Bing
Hình trái: Bing năm 1965, đang hút thuốc lá. Phải: Tranh “Blue Mountain, No. 2” (Bernice Bing, 1966).
 
Người giám quản cho cuộc triển lãm của Bing là Abby Chen, người năm 2018 được bổ nhiệm làm Giám đốc đầu tiên phụ trách về hội họa đương đại tại bảo tàng này, nhận định rằng cuộc triển lãm này cho thấy sự đầu tư của bảo tàng viện này đối với các họa sĩ Hoa Kỳ gốc Á chưa được công nhận đúng mức. Nghĩa là, theo ý người giám quản, tài năng của họa sĩ Bernice Bing lẽ ra cần được vinh danh thích nghi hơn.
 
Thê thảm tới mức, trong khi Tự điển Wikipedia viết về cuộc đời họa sĩ Bernice Bing bằng 9 ngôn ngữ (Anh văn, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy điển, Ukraine, Ả rập Ai cập, Ả rập, Hebrew [Do Thái], Welsh) nhưng không thấy tiếng Trung Hoa. Có phải chính phủ Bắc Kinh và cả chính phủ Đài Loan đã xem họa sĩ Bernice Bing y hệt như ngoại tộc, không xem bà như khúc ruột xa ngàn dặm?

__ 03 dem_Kinh Phap Hoa_thu phap truu tuong

Tranh Bernice Bing. Trái: “Dusk, 1987” (Bóng tối) ; giữa: “Lotus Sutra, 1986” (Kinh Pháp Hoa); phải: “Thư pháp trừu tượng, 1987.”

 
Bernice Bing có tên tiếng Hoa, theo phiên âm là Lee Yu Bing (李玉冰)và cũng là Lý Ngọc Băng, đọc theo âm Việt. Bernice Bing sinh ngày 10 tháng 4/1936 tại Phố Tàu, San Francisco, California. Bà từ trần ngày 18/8/1998, hưởng thọ 62 tuổi. Tên đầy đủ của bà là Bernice Lee Bing, khi còn thơ ấu được gọi bằng tên đùa giỡn là “Bingo” – có cha là một di dân từ miền nam Trung Hoa, và mẹ sinh tại Hoa Kỳ. Khi Bing sáu tuổi, mẹ chết vì bệnh tim, để Bing bơ vơ với di sản văn hóa Trung Hoa rất nhạt nhòa. Không cha lẫn mẹ, Bing cùng với em gái, tên là Lolita, được đưa vào sống trong các nhà nuôi trẻ mồ côi da trắng. Và rồi cùng với em gái được đưa vào sống trong Ming Quong Home, một nhà tập thể cho các cô gái trẻ trong Phố Tàu của thành phố Oakland. Bing thỉnh thoảng có lúc được ra cư trú ở Oakland với bà ngoại, người khuyến khích Bing nên theo đường hội họa. Là một đứa trẻ nổi loạn, Bing không học giỏi lắm, thế rồi Bing chuyển sang đam mê học vẽ. Frieda Weinstein, người quản trị di sản Bernice Bing, nói rằng khi chưa tới tuổi thành niên, Bing đã ở tới 17 viện mồ côi khác nhau, bản thân từng bị lạm dụng và cũng từng bụi đời lang thang.

__ 04 Bernice Bing

Bernice Bing trong xưởng vẽ ở North Beach của bà năm 1961. (Photo: Charles Snyder / Bernice Bing Estate)

 
Sau khi tốt nghiệp trung học Oakland Technical High School năm 1955, bà nhận một học bổng National Scholastic Award để vào học đại học California College of Arts and Crafts (CCAC). Bà học trường này cùng với họa sĩ trừu tượng biểu hiện George Miyasaki và điêu khắc Manuel Neri. Trong thời gian học nơi đây, Bing học với các vị thầy như Nathan Oliveira (1928-2010), Richard Diebenkorn (1922-1993), và Saburo Hasegawa (1906-1957), vị sau này ảnh hưởng lớn với Bing. Là một họa sĩ sinh ra ở Nhật Bản,

Hasegawa giới thiệu Bing với Thiền Tông Phật Giáo, với các triết gia Trung Hoa, trong đó có Lão Tử và nhà thơ Bạch Cư Dị, và với thư pháp truyền thống Đông phương.

__ 05 bernice bing

Tranh Bernice Bing. Trái: “A Lady and a Road Map, 1962” (Một phụ nữ và một bản đồ lộ trình); phải: “Không đề, 1988.”

 
Năm 1958, sau một học kỳ tại trường CCAC, Bing chuyển trường sang California School of Fine Arts, nơi bây giờ có tên là San Francisco Art Institute (Học Viện Mỹ Thuật San Francisco). Nơi đây, Bing học với hai họa sĩ trường phái trừu tượng biểu hiện Elmer Bischoff và Frank Lobdell, và rồi tốt nghiệp văn B.F.A. (Cử nhân Mỹ thuật) với danh dự năm 1959 rồi văn bằng M.F.A. (Thạc sĩ Mỹ thuật) năm 1961. Để tự mưu sinh trong khi học, Bing cũng giữ một xưởng vẽ ở North Beach trên lầu của tiệm ăn Old Spaghetti Factory, một nơi được giới nghệ sĩ ưa chuộng tụ tập.
 
Vào cuối thập niên 1950s và đầu thập niên 1960s, bầu không khí nghệ thuật vùng Vịnh liên tục sinh động, và Bing sống gần với nhiều họa sĩ nổi tiếng đó. Nhóm bạn của Bing, nhiều người là các họa sĩ trừu tượng nổi tiếng, trong đó có Joan Brown, Wally Hedrick, Jay DeFeo, Bruce Conner và Fred Martin.
 
Kim Anno, một giáo sư tại California College of the Arts và là một người cố vấn cho cuộc triển lãm tranh Bernice Bing, nhận định, “Bing sống xa lìa, cách biệt đối với những thành phần dư tiền lắm bạc.”

__ 06 bernice bing

Tranh Bernice Bing. Trái: “Raging Wind, 1986” (Gió cuồn cuộn); Giữa: “Philosopher’s Stone, 1987” (Viên đá của triết gia); Phải: “Ideograph, 1989” (Hình biểu tượng).


Frieda Weinstein, người đồng quản trị Di Sản Bernice Bing, kể rằng Bing trở thành một phần trong không khí nghệ thuật avant-garde (tiên phong, thử nghiệm, sáng tạo…) của San Francisco, ưa tụ tập lang thang với nghệ sĩ hút thuốc và nốc rượu Cognac.
 
Là một người trọn đời hiếu học, Bing tự học về vật lý lượng tử, say mê đọc về Carl Jung (nhà nghiên cứu nổi tiếng về tâm lý học, về ý thức và vô thức, về tôn giáo…) và năm 1967, Bing vào sống 9 tháng trong phong trào “ý thức nhân loại” tại viện Esalen Institute, tại thị trấn Big Sur, cùng với nhiều nghệ sĩ, trí thức khác. Từ thời đi học, Bing học Thầy Hasegawa về cảm nhận mỹ học và sống mỹ học với Thiền Tông. Nhưng chính tại viện Esalen, Bing được học thêm từ một chân trời Thiền Tông khác: Bing được Alan Watts dạy ngồi Thiền theo phương pháp Zen Nhật Bản để nhận ra tâm tỉnh thức, rỗng rang, lặng lẽ. Và rồi, Bing trở thành một Phật tử nhiệt tâm.
 
Bing, bản thân là một người viết nhật ký chuyên cần, tự chất vấn về nơi bà tùy thuộc: “Tôi, là một phụ nữ, là một người gốc Á châu, và là một đồng tính nữ trong một hệ thống của đàn ông da trắng – Nơi đâu tôi khởi đầu để hồi phục thực tại của tôi?” Câu hỏi đó trong nhật ký nổi bật trong bức chân dung tự họa, tay bà cầm một chiếc mặt nạ che mặt. Trong khi đó, bạn hữu và những người chung quanh mô tả Bing là một phụ nữ xinh đẹp nhưng ý chí vững vàng, ưa nói thẳng nhưng khiêm tốn, khôi hài nhưng phong thái quý tộc cao vời, theo lời của Weinstein.
 
Bing có nhiều năm trong đời hoạt động cộng đồng, soạn ra các chương trình sáng tạo mỹ thuật cho các khu phố, và khuyến khích người khác học vẽ. Sau khi xảy ra chuyện 5 người chết trong một vụ băng đảng gốc Hoa bắn nhau có tên là thảm sát ở tiệm The Golden Dragon tại Phố Tàu San Francisto năm 1977, Bing làm việc với các em thiếu niên ở Phố Tàu, dạy các em vẽ.
 
Khi được học bổng Fulbright Fellowship, Bing sang Trung Quốc năm 1984. Trong thời gian đó, Bing học thư pháp, và cách vẽ tranh bằng mực truyền thống. Thời gian này, tranh của Bing đậm nét Phật giáo và truyền thống Trung Hoa. Nhiều nhan đề tranh của Bing thời gian này liên hệ tới Kinh Pháp Hoa.
 
Vào đầu thập niên 1990s, Bing chẩn đoán có bệnh hemochromatosis (nhiễm sắc tố sắt mô) và bệnh lupus (lupus ban đỏ). Họa phẩm cuối cùng của bà có nhan đề “Epilogue” (Tái bút) vẽ trong các năm 1990-1995, chiều cao 1.8 meters và chiều rộng 7.3 meters đầy những màu sắc mãnh liệt và các đường mạnh mẽ. Trong khi vẽ tranh cuối đó, bà viết vào ngày 27/10/1992: “Tôi không có thể thay đổi thế giới. Điều duy nhất tôi có thể thay đổi là tôi. Và như thế có thể trọn một kiếp – không chỉ là kiếp sống hiện tại, nhưng sẽ là nhiều đại kiếp.” Chữ đại kiếp là khái niệm chỉ có trong Phật giáo, hàm nghĩa là nhiều không kể xiết, cũng hàm nghĩa là khi thân tâm tan rã, năm uẩn không còn trở về với cái có thể đếm được..
 
Sau đó, Bing lui về ngôi làng Philo, một nơi cảnh đẹp và xa xôi hẻo lánh, cách San Frncisco về phía bắc 120 dặm, nơi bà chăn dê, làm việc trong một tiệm bán thực phẩm hữu cơ và vẽ trong một căn chòi đổ nát.
Chú tâm vẽ, đối với Bernice Bing, cũng là một Thiền pháp. Bà viết năm 1964: “Tôi đôi khi đạt tới trạng thái giác ngộ này trong khi vẽ, nhưng điều này lại hiếm hoi… Tôi như dường không thể đưa cảm xúc mình vào tranh, khi tôi đạt tới cảm xúc trạng thái giác ngộ này.” Chỗ này chúng ta có thể suy đoán, khi Bernice Bing có cảm giác tới trạng thái giác ngộ, tức là khi nhìn thấy tâm rỗng lặng (cũng là tâm xa lìa các pháp) thì màu sắc đường nét cũng như dường biến mất.
 
Nhiều năm sau khi viết như thế, họa sĩ Bernice Bing ghi nhận về pháp Thiền tập của bà và tranh vẽ, vào năm 1989: “Trong pháp tu Phật pháp của tôi, tôi vẫn chưa học được cách buông bỏ cả mỹ thuật. Hình thức cao nhất của mỹ thuật là một phương tiện, một câu thần chú. Tôi còn mang gánh nặng về phương diện sắc tướng của hành vi vẽ tranh.” Có vẻ như bà ám chỉ tới Kinh Kim Cương, khi lời Đức Phật dạy là buông bỏ cả những cái được thấy và những cái được nghe. Trong khi đó, đối với họa sĩ, tranh vẽ là một phương tiện, là một cỗ xe chuyên chở, là một câu thần chú để bà làm cho trong lành hóa cõi nhân gian này, và để giải thoát tự thân người sáng tạo.
 
Theo học giả Lin Ma, họa sĩ Bernice Bing tiếp cận với cả 3 khuynh hướng Phật giáo: Thiền Tông, Nichiren (Nhật Liên Tông), và Nyingma Buddhism (Cổ Mật PG Tây Tạng). Thái độ ứng xử Phật học của Binh thể hiện qua cách tự nhìn chính mình trong suốt đời là, không để cho được nhìn qua căn cước người Mỹ gốc Hoa, cũng không muốn được xem như một đồng tính nữ, cũng không để cho được nhìn như một phụ nữ. Nghĩa là, vô ngã. Do vậy, công chúng không hề biết Bernice Bing một người đồng tính nữ. Chỉ tới một năm sau khi bà từ trần, trong cuộc triển lãm tưởng niệm 1999 do giới họa sĩ San Francisco tổ chức, lần đầu yếu tố đồng tính nữ được viết lên trong bài tưởng niệm.
 
Bernice Bing kể về Giáo sư Saburo Hasegawa, người dạy bà về Thiền Tông từ năm 1956, và nói rằng chính thập niên 1956-1966 đã cho bà những khám phá mỹ học Thiền và tư tưởng Đông phương. Trong nhật ký, Bing ghi rẳng Hasegawa là “ảnh hưởng thâm sâu đâu tiên về tư tưởng Đông phương.”
Bing kể lại về Thầy Hasegawa: “Ban đầu, Thầy chịu ảnh hưởng hội họa Châu Âu và rồi Thầy mới học Thiền. Thầy thực tập Thiền, và đưa thiền tập của Thầy vào trong họa phẩm. Tác phẩm của thầy là những gì trừu tượng như mộng, đẹp và phảng phất thư pháp. Thây giới thiệu tôi vào một toàn bộ không khí hoàn toàn xa lạ với tôi. Tôi không có khái niệm gì về gọi là một phụ nữ Á châu, và Thầy làm tôi bắt đầu suy nghĩ về cương vị đó, và cũng bởi vì Thầy nói bằng các ẩn dụ.
 
Và rồi, nhiều năm sau, họa sĩ Bernice Bing viết về mắt nhìn Thiền Tông của bà: “Tất cả thiên nhiên đều trong lành thanh tịnh, và đều trừu tượng một cách thanh tịnh, là sự hợp nhất tâm linh nối kết cả hai phần: những sắc tướng thiên nhiên được thấy và không được thấy.” (“All nature is pure, and purely abstracted, the spiritual union links both the seen and the unseen forms of nature.”) Hiển nhiên, tự thân bà đã có một cái nhìn của một bậc Thiền sư.
 
Thấy như thế, viết như thế, vẽ như thế, và sống như thế. Không có bao nhiêu người tới được nơi mắt nhìn thanh tịnh trừu tượng như bà, nơi trong kinh thường gọi là pháp nhãn thanh tịnh. Lý Ngọc Băng, còn gọi là Bernice Bing. Là như thế. Chỉ là như thế. Nơi đây, bà không muốn được định vị căn cước của bà theo bất cứ cách nào khả lượng của thế gian.
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Đài Truyền Hình SBTN đang tổ chức một cuộc thi sắc đẹp dành cho ngành nails mang tên Nail Queen, với mục đích vinh danh những người gốc Việt đang tham gia vào ngành công nghiệp có đóng góp quan trọng vào bậc nhất cho cộng đồng người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ.
Khi những chiếc lá sống hết đời mình và trở màu vàng úa, chúng đợi từng trận gió ùa đến để mang chúng đi thả tung hê đầy mặt đất là lúc đất trời chuyển màu thu xám. Ngày bắt đầu ngắn đi, không gian như chùng xuống se lạnh và âm ẩm hơi nước. Ấy cũng là lúc tôi theo chân đoàn nhiếp ảnh VNPC đi săn những bức ảnh ghi lại giờ giấc cảnh vật giao mùa.
Ngôi sao đang lên này đã trình diễn nhạc đồng quê, tại Brazil gọi là sertanejo. Cô nổi tiếng với việc giải quyết các vấn đề nữ quyền trong các ca khúc của cô, như chỉ trích những người đàn ông kiểm soát những người bạn đời của họ, và kêu gọi trao quyền cho phụ nữ. Vào chiều tối Thứ Sáu, tin này đã làm tuông ra sự buồn bã trên truyền thông xã hội ở tất cả ngõ ngách của Brazil, gồm những người hâm mộ, cách chính trị gia, những nhạc sĩ và cầu thủ bóng đá. Instagram của cô có tới 38 triệu người vào đọc. “Tôi không tin, tôi không tin,” theo ngôi sao bóng tròn Brazil Neymar, là bạn của Mendonça, đã viết thế trên Twitter sau khi tin tức về cái chết của cô được loan đi. Chính phủ Brazil cũng gửi lời chia buồn.
Ông là người có ảnh hưởng lớn đến hội họa Thời Đại Hoàng Kim Hòa Lan và hội họa sau này nói chung trong những chọn lựa sáng tạo của ông về chủ đề, như một trong những thế hệ đầu tiên của các nghệ sĩ trưởng thành khi các chủ đề tôn giáo không còn là chủ đề tự nhiên của hội họa. Ông cũng không vẽ chân dung, là cột trụ khác của nghệ thuật Hòa Lan. Sau đào tạo và kinh hành sang Ý, ông trở về vào năm 1555 để sống tại Antwerp, nơi ông chủ yếu làm việc như một người thiết kế cho một nhà xuất bản hàng đầu lúc đó. Cho đến cuối thập niên đó ông đã chuyển sang vẽ như nghề chính, và tất cả những họa phẩm nổi tiếng của ông đến từ thời gian kế tiếp hơn mười năm một chút trước khi ông qua đời, lúc mới vừa ở tuổi 40 và đang ở đỉnh cao của sự nghiệp.
Đại Hội Điện Ảnh Việt Nam Quốc Tế (Viet Film Fest) sẽ thực hiện lễ trao giải trực tuyến vào lúc 6 giờ chiều thứ Năm, ngày 28 tháng 10. Khán giả muốn theo dõi chương trình phát giải, xin vào thăm trang nhà www.VietFilmFest.com hoặc Youtube Viet Film Fest Awards Ceremony 2021. Đây là lần đầu tiên lễ trao giải của Viet Film Fest được thực hiện trực tuyến.
Mùa đại dịch. Làm gì cho đầu óc thư giãn, bớt căng thẳng, tìm được niềm vui? Ai cũng có những cách riêng, nhưng có một cách chung là… nghe nhạc! Nhạc là ngôn ngữ quốc tế, là linh dược vô hình. Ai cũng biết, âm nhạc làm cho người ta yêu đời, hạnh phúc, khỏe mạnh, và thông minh hơn. Nhiều phụ nữ ngay từ khi cấn thai đã mở nhạc Mozart cho con nghe. Trẻ em học nhạc trong nhiều năm sẽ có chỉ số thông minh cao. Đại học Harvard đã có nhiều cuộc nghiên cứu (https://www.health.harvard.edu/newsletter_article/music-and-health) cho thấy những lợi ích thiết thực của âm nhạc đối với sức khỏe. Những dòng nhạc nhẹ nhàng và truyền cảm hứng mang đến nhiều lợi ích tuyệt vời cho đời sống. Một giai điệu quen thuộc có thể gợi lại những kỷ niệm đẹp và làm cho người nghe cảm thấy dễ chịu, hạnh phúc. Nghe nhạc thu âm đã tốt, nhưng nghe nhạc được trình diễn tại chỗ lại càng tốt hơn, nhất là khi người xem được trực tiếp tham gia vào phần trình diễn. Lấy Nhạc trị Dịch ư? Đêm nhạc “Beethoven's Eroica" do dàn
Ông là một nhà sư dị thường, và cũng là một họa sĩ dị thường. Giới văn nghệ sĩ Hàn quốc gọi Jung-kwang -- cũng được phiên âm theo cách đọc là Junggwang (1935–2003) --- vì kiểu cách dị thường là một nhà sư khùng, hay nhà sư điên. Một sách tiếng Anh của nhà sư này cũng tự gọi là “the mad monk” --- dù vậy, các họa phẩm của nhà sư từ lâu đã được các hãng đấu giá và nhiều bảo tàng viện ưa chuộng. Jung-kwang sinh ngày 5 tháng 3/1935 với tên khai sanh là Go Chang-ryul, tại đảo Jeju Island, đảo lớn nhất của Hàn quốc, nơi thường được quốc tế gọi là “South Korea’s Hawaii” (Hawaii của Nam Hàn) – mệnh danh là thiên đường đảo quốc, nơi thu hút du khách quốc tế. Và nhà sư Jung-kwang từ trần ngày 5 tháng 1/2003, trụ thế 68 tuổi, an táng tại tỉnh South Gyeongsang. Jung-kwang nổi tiếng về các họa phẩm có nét vẽ khác thường. Ông có một đời sống rất nghệ sĩ, như dường cửa Thiền là nơi ông chỉ ghé tạm thôi. Jung-kwang xuất gia từ năm 25 tuổi, rồi bị dòng tu trục xuất năm 1979
Phim điện ảnh cổ trang “KIỀU”, lấy cảm hứng từ kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du, do Tincom Media sản xuất nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày mất của tác giả, sẽ có buổi công chiếu chính thức tại Mỹ với tư cách là bộ phim Việt Nam tiêu điểm (Vietnamese Spotlight Film) được lựa chọn tham dự Liên hoan phim Newport Beach (Newport Beach Film Festival) năm nay. Huntington Beach, California (ngày 18 tháng 10, năm 2021) – Newport Beach Film Festival là liên hoan phim phát triển nhanh nhất tại Bờ Tây nước Mỹ, có sự tham gia của hơn 50 quốc gia với nhiều thể loại phim được chọn lọc. Phim điện ảnh cổ trang “KIỀU” là bộ phim thứ 2 của Việt Nam góp mặt trong khuôn khổ bộ phim Việt Nam tiêu điểm của Liên hoan phim Newport Beach kể từ 22 năm qua. Lấy cảm hứng từ một trích đoạn được chọn lọc trong “Truyện Kiều” gồm 3.254 câu thơ lục bát, phim điện ảnh cổ trang “KIỀU” đưa khán giả vào một hành trình đầy cảm xúc với nhiều năm lưu lạc của nàng Kiều
Cuối thập niên 80, vào một đêm cuối tuần, tác giả gọi điện thoại mời người con gái mình thích đi nghe nhạc ở một vũ trường ở San Jose; bị từ chối. Ngồi buồn, tác giả ôm đàn nghêu ngao hát và ca khúc Mời Em Khiêu Vũ điệu Tango ra đời.
Ngày xưa ở Việt Nam, môn cải lương và hát bội được nhiều người yêu chuộng, nhưng khi ra ngoại quốc, những môn này vẫn còn tồn tại nhưng không được tổ chức thường xuyên vì quá tốn kém, không nhiều người thưởng thức những môn nghệ thuật này. Lâu lâu chúng tôi mới nghe nói tới có tổ chức hát cải lương, hát bội nhưng không nhiều.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.