Hôm nay,  

Người Đàn Ông Da Trắng Trong Tấm Hình Đó

19/06/202006:52:00(Xem: 5314)
H 1_NGUOI DAN ONG DA TRANG

Trong Thế Vận 1968 ở Mexico City, trên bục nhận huy chương, từ trái: Peter Norman, Tommie Smith và John Carlos. Cả 3 người mang nơi ngực trái huy hiệu Dự Án Thế Vận Vì Nhân Quyền, đòi bình đẳng sắc tộc. Hai lực sĩ da đen đi chân trần, đưa tay chào kiểu Sức Mạnh Đen.


(Bài này bản gốc viết bằng tiếng Ý của nhà văn Riccardo Gazzaniga trên báo griotmag.com ngày 10/10/2015, được Alexa Combs Dieffenbach dịch sang tiếng Anh, và Phan Tấn Hải dịch sang tiếng Việt.)

Đôi khi hình ảnh lừa gạt người xem. Thí dụ, như tấm ảnh này. Hai vận động viên da đen John Carlos và Tommie Smith đứng cuối đầu, đưa một tay lên cao, vào ngày họ lãnh huy chương chạy 200 mét tại Thế Vận Mùa Hè 1968 ở thành phố Mexico City, và tấm ảnh này đã lừa gạt tôi trong thời gian dài.

Tôi luôn luôn nhìn tấm ảnh đó như một hình ảnh mạnh mẽ của hai người đàn ông da đen, chân trần, với đầu cuối xuống, các bàn tay mang găng đen đưa cao lên trong khi nhạc trổi lên quốc ca Hoa Kỳ, bản “The Star-Spangled Banner.” Đó là một cử chỉ biểu tượng mạnh mẽ -- đấu tranh vì dân quyền cho người Mỹ gốc Phi trong một năm mà các thảm kịch xảy ra, trong đó có cái chết của Martin Luther King và Bobby Kennedy.

Đó là tấm hình lịch sử của 2 người đàn ông da màu. Do vậy, tôi chưa bao giờ thực sự chú ý tới người đàn ông kia, da trắng, giống tôi, bất động nơi bậc thứ nhì của bục nhận giải thưởng đó. Tôi xem người kia như một hiện diện tình cờ, phụ thêm trong khoảnh khắc của Carlos và Smith, hay là một kiểu như người chen vào. Thực sự, tôi còn đã nghĩ rằng người đó --- trông như dường chỉ là một người Anh quốc cười gượng --- trong kiểu đứng bất động lạnh lẽo như đại diện cho các ý chí muốn chống lại sự thay đổi mà Smith và Carlos đang đưa lên trong hành động phản đối lặng lẽ. Nhưng tôi đã nhầm.

Nhờ một bài báo cũ của Gianni Mura, hôm nay tôi khám phá ra sự thực: rằng người đàn ông da trắng trong tấm ảnh đó, có lẽ, là vị anh hùng thứ ba trong đêm đó của năm 1968. Tên vận động viên đó là Peter Norman, một lực sĩ Úc chạy kỳ thi chung kết 200 mét sau khi chạy đường bán kết với thời lượng tuyệt vời 20.22 giây đồng hồ. Chỉ có 2 người Mỹ, tên là Tommie “The Jet” Smith và John Carlos, đã chạy nhanh hơn với tốc độ, theo thứ tự là 20.14 và 20.12 giây đồng hồ.

Như dường rằng chiến thắng sẽ được quyết định giữa 2 người Mỹ. Norman là một vận động viên chạy vô danh, người như dường vừa mới chạy cho nóng người. Vài năm sau, John Carlos nói rằng anh được hỏi về những gì đã xảy ra cho người lực sĩ da trắng nhỏ con đó --- đứng cao chỉ 5’6”(= 1.68 mét) và chạy cũng nhanh như anh và Smith, cả hai đều cao hơn ở mức 6’2” (1.8796 meters).

Tới khi chạy tuyến chung kết, kẻ bên lề có tên là Peter Norman đã chạy nhanh kỷ lục, tốc độ là 20.06 giây đồng hồ, nhanh nhất đối với bản thân và vẫn là kỷ lục nhanh với Úc châu tới giờ, 47 năm sau (bài này viết năm 2015).

H 2_NGUOI DAN ONG DA TRANG

Tượng đài xây năm 2003 ở khuôn viên đại học San Jose State University, chỉ có 2 lực sĩ da đen chân trần. Vị trí của Norman được bỏ trống để khách tới có thể đứng vào chỗ trống để chụp hình, vì chính nghĩa bình đẳng.


Nhưng kỷ lục đó vẫn chưa đủ, vì Tommie Smith thực sự là “The Jet” (phi cơ phản lực) và Smith vượt hơn kỷ lục Úc châu của Norman với một kỷ lục thế giới. Ngắn gọn, đó là một cuộc thi chạy tuyệt vời.

Nhưng cuộc thi chạy đó sẽ không bao giờ được ghi nhớ như chuyện xảy ra tại lễ trao huy chương.

Không lâu sau cuộc thi chạy là người ta thấy một chuyện lớn chưa từng có đã xảy ra trên bục lãnh huy chương. Smith và Carlos quyết định rằng họ muốn cho toàn thế giới thấy cách họ đấu tranh cho nhân quyền, và cho tiếng nói là truyền bá khắp các lực sĩ.

Norman là người da trắng từ Úc châu, một quốc gia có luật phân biệt chủng tộc gay gắt (apartheid laws), gần nghiêm khắc như ở Nam Phi. Đã có căng thẳng và biểu tình trên đường phố Úc châu sau khi có hạn chế nặng nề việc đón nhận người da màu nhập cư và về luật kỳ thị chống lại dân nguyên trú, một số trong đó bao gồm việc cưỡng bách trẻ em nguyên trú đưa làm con nuôi trong các gia đình da trắng.

Hai vận động viên Mỹ đã hỏi Norman rằng anh có tin vào nhân quyền hay không. Norman trả lời rằng anh tin. Họ hỏi Norman tiếp rằng anh có tin vào Thượng Đế không, và anh, người trước đó hoạt động trong tổ chức Salvation Army (Đạo Binh Cứu Rỗi), nói rằng anh tin mãnh mẽ vào Thượng Đế. John Carlos nhớ lại rằng, “Chúng tôi biết ngay rằng chúng tôi sắp làm một hành động vĩ đại hơn bất kỳ thành tích lực sĩ nào, và anh ta [Norman] nói, ‘Tôi sẽ đứng với 2 bạn’ – Tôi dự kiến sẽ nhìn thấy nỗi sợ trong mắt Norman, nhưng thay vào đó chúng tôi nhìn thấy sự thương yêu.”

Smith và Carlos trước đó đã quyết định đứng trên bục giải thưởng trong khi mang huy hiệu của Olympic Project for Human Rights (Dự Án Thế Vận Vì Nhân Quyền), một phong trào của các lực sĩ hỗ trợ cuộc chiến đòi bình đẳng [màu da].

Họ sẽ lãnh huy chương trong khi để chân trần, biểu tượng sự đói nghèo vây quanh người da màu. Họ sẽ mang găng tay đen nổi tiếng, biểu tượng cho chính nghĩa của nhóm Black Panthers (Báo Đen). Nhưng trước khi bước lên bục huy chương, họ nhận ra họ chỉ có một cặp găng tay đen. Norman mới nói, “Mỗi người một chiếc [găng].” Smith và Carlos đón nhận lời khuyên đó.

Nhưng rồi Norman làm một chuyện khác. Norman vừa chỉ vào huy hiệu Olympic Project for Human Rights trên ngực 2 lực sĩ Mỹ vừa hỏi, “Tôi tin vào điều hai bạn tin. Bạn còn có một huy hiệu nào cho tôi không? Như thế tôi có thể bày tỏ sự ủng hộ của tôi đối với chính nghĩa của hai bạn.” Smith thú nhận là lúc đó kinh ngạc, nghĩ rằng, “Thằng cha da trắng Úc châu này là ai vậy? Nó thắng huy chương bạc, nó không thể thấy nó chỉ cầm huy chương và thế là đủ sao!”

Smith trả lời rằng anh không có dư huy hiệu, cũng vì anh sẽ không bị từ chối huy hiệu của anh. Lúc đó có một lực sĩ da trắng Hoa Kỳ bên cuộc thi chèo thuyền, tên là Paul Hoffman, một nhà hoạt động cho phong trào Olympic Project for Human Rights. Sau khi nghe được, Hoffman không do dự, nghĩ ngay: “Nếu một người Úc da trắng hỏi xin tôi huy hiệu Olympic Project for Human Rights, thì Chúa ơi anh ta sẽ có. Tôi sẽ tặng anh này cái duy nhất tôi có: cái của tôi.”

Ba lực sĩ bước ra sân và bước lên bục huy chương: phần còn lại là lịch sử, được giữ lại nhờ sức mạnh tấm hình chụp lại (huy hiệu nhìn thấy trong hình là vòng tròn nền trắng có khắc chữ và hình đeo nơi ngực trái ba lực sĩ). Norman kể lại, “Tôi không có thể nhìn thấy chuyện xảy ra, nhưng tôi đã biết trước rằng ba người chúng tôi đều theo đúng kế hoạch khi một giọng trong đám đông cất tiếng hát bản quốc ca Hoa Kỳ nhưng rồi giọng hát dịu xuống, dứt bặt. Cả sân vận động lặng im như tờ.”

Trướng phái đoàn Thế Vận Hoa Kỳ thể là các lực sĩ này sẽ phải trả giá trọn đời họ vì cử chỉ đó, một cử chỉ ông nghĩ là không liên hệ gì tới thể thao. Smith và Carlos tức khắc bị ngưng trong phái đoàn Thế Vận Hoa Kỳ và bị trục xuất ra khỏi Làng thế Vận, trong khi lực sĩ đua thuyền Hoffman bị cáo buộc tội âm mưu.


Khi về Mỹ, hai người đàn ông chạy nhanh hàng đầu thế giới bị truy bức nặng nề và bị hăm dọa ám sát.

Nhưng với thời gian, trong tận cùng, đã chứng minh rằng họ đã làm điều phải và họ trở thành các nhà vô địch trong cuộc chiến vì nhân quyên. Với hình ảnh được hồi phục, họ đã hợp tác với hội Vận Động Viên Hoa Kỳ, và một bức tượng của họ được dựng lên trong khuôn viên đại học San Jose State University. Nhưng Peter Norman vắng mặt trong tượng đài này. Việc Norman vắng mặt [trên tượng đài] trông như bia mộ của một anh hùng mà không ai từng ghi nhận. Một lực sĩ bị bỏ quên, bị xóa khỏi lịch sử, ngay cả tại Úc châu, nơi đất nước của anh.

Sau đó 4 năm, tại Thế Vận Mùa Hè 1972 tổ chức tại Munich, Đức quốc, Norman không được cho vào đội lực sĩ chạy điền kinh của Úc, bất kể anh từng chạy đủ điều kiện 13 lần cuộc thi chạy 200 mét và 4 lần cuộc thi chạy 100 mét.

Norman đã rời bỏ sự nghiệp lực sĩ chạy thi sau nỗi thất vọng này, chỉ tiếp tục chạy ở mức độ tài tử.

Trở về trong một nước Úc bảo thủ và bị tẩy trắng, Norman bị xem như kể ngoài lề, gia đình anh bị xem như mạt hạng, và việc làm không thể tìm được. Có một lúc, Norman làm việc như một thầy dạy thể dục trong phòng gym, tiếp tục cuộc chiến chống bất bình đẳng trong cương vị người hoạt động nghiệp đoàn, và thỉnh thoảng làm việc trong một tiệm chặt thịt. Thế rồi Norman bị một vết thương, gây ra nhiễm trùng hoại cơ, dẫn tới việc anh trầm cảm và nghiện rượu.

Như lời John Carlos, “Trong khi chúng tôi bị bầm dập, thì Peter Norman đối mặt với cả đất nước của anh và đơn độc đau khổ.” Trong nhiều năm, Norman chỉ có một cơ hội duy nhất để tự cứu: Norman được khuyến dụ là hãy lên án hành vi của hai lực sĩ kia, John Carlos và Tommie Smith, để bù lại Norman sẽ được hệ thống này ân xá, miễn truy bức.

Việc ân xá sẽ có thể cho Norman tìm được việc làm ổn định nhờ tổ chức Ủy Ban Thế Vận Úc Châu và sẽ được là một phần tử trong tổ chức Thế Vận 2000 Sydney (2000 Sydney Olympic Games). Nhưng Norman không bao giờ ân hận, và không bao giờ lên án sự lựa chọn của 2 lực sĩ Mỹ kia.

Norman là lực sĩ Úc chạy nhanh nhất trong lịch sử và vẫn là người giữ kỷ lục 200 mét, nhưng Norman không được mời vào Thế Vận ở Sydney. Chính lúc đó, Ủy Ban Thế Vận Hoa Kỳ khi biết chuyện đã mời Norman tham dự trong nhóm của họ và đã mời Norman dự tiệc sinh nhật nhà vô địch Thế Vận Michael Johnson, người đã ngưỡng mộ Peter Norman như là một anh hùng và là mô hình gương mẫu.

H 3_NGUOI DAN ONG DA TRANG

Peter Norman từ trần tháng 10/2006 vì bệnh tim. Hai bạn lực sĩ da đen từ Hoa Kỳ sang Úc khiêng quan tài từ biệt.


Peter Norman đột tử vì bệnh tim trong năm 2006, mà không hề được đất nước của anh xin lỗi vì đã xử tệ bạc với anh. Trong tang lễ của anh, Tommie Smith và John Carlos, những người bạn của Norman kể từ khoảnh khắc đó của năm 1968, là hai người khiêng quan tài cho anh, đưa tiễn anh như một anh hùng.

John Carlos nói, “Peter Norman là một chiến sĩ cô đơn. Một cách ý thức, anh đã tự lựa chọn làm con cừu hiến tế trong khi nhân danh nhân quyền. Không có ai khác hơn anh xứng đáng để Úc châu nên vinh danh, công nhận và biết ơn.”

Tommie Smith nói, “Norman đã trả giá với lựa chọn của anh. Đó không chỉ là một cử chỉ đơn giản để giúp chúng tôi, đó là cuộc chiến CỦA ANH TA. Anh ta là một người da trắng, một người đàn ông da trắng Úc Châu giữa hai người đàn ông da màu, đứng thẳng trong khoảnh khắc chiến thắng đó, tất cả [ba người] đều nhân danh cùng một chính nghĩa.”

H 4_NGUOI DAN ONG DA TRANG

Tình bạn lực sĩ vượt qua màu da ở Làng Thế Vận 1968.


Chỉ tới năm 2012, Hạ Viện Úc Châu chấp thuận một bản văn chính thức xin lỗi Peter Norman và ghi tên anh trở lại vào lịch sử với nội dung Hạ Viện:
“Công nhận thành quả thể thao xuất sắc của cố vận động viên Peter Norman, người thắng huy chương bạc trong cuộc thi chạy 200 mét tại Thế Vận 1968 ở Mexico City, với thời lượng 20.06 giây đồng hồ, vẫn còn là một kỷ lục Úc Châu.

“Công nhận lòng can đảm của Peter Norman khi mang huy hiệu Olympic Project for Human Rights lúc đứng trên bục huy chương, trong đoàn kết với các lực sĩ Mỹ gốc Phi Tommie Smith và John Carlos, những người đã bày tỏ hình thức chào ‘sức mạnh da đen’.

“Xin lỗi Peter Norman vì những sai trái Úc Châu đối xử khi gạt tên ông ra ngoài Thế Vận 1972 Munich, bất kể ông liên tục đủ điều kiện thể thao; và tuy chậm trễ, nay công nhận vai trò mãnh liệt mà Peter Norman đã thực hiện trong việc đòi hỏi bình đẳng sắc tộc.”

Tuy nhiên, có lẽ, những chữ nhắc chúng ta về Peter Norman đầy đủ nhất là chính lời anh khi mô tả lý do anh làm như thế, trong phim tài liệu nhan đề “Salute,” được viết, đạo diễn và sản xuất bởi cháu trai của anh là Matt.

“Tôi không có thể nhìn thấy vì sao một người da đen không có thể uống cùng nước từ một vòi nước, đi cùng một xe buýt hay vào học cùng trường như một người da trắng. Có một sự bất công xã hội mà tôi không có thể làm bất cứ gì từ nơi tôi ở, nhưng tôi hẳn nhiên là ghét bất công đó. Người ta nói rằng khi chia sẻ huy chương bạc của tôi trong sự kiện đó trên bục chiến thắng đó đã làm cho thành quả của tôi trật hướng. Ngược lại. Tôi phải thú nhận, rằng tôi khá là hãnh diện khi là một phần của nó.”

Khi ngay cả bây giờ, như dường cuộc chiến vì nhân quyền và bình đẳng có vẻ bất tận, và sinh mạng vô tội đang bị giết đi, chúng ta phải nhớ những người đã tự hy sinh, như Peter Norman, và tìm cách theo bước của họ. Bình đẳng và công lý không phải là cuộc chiến của một cộng đồng đơn lẻ, nó là cuộc chiến của tất cả mọi người.

Do vậy, tháng 10/2015 này, khi tôi có mặt ở San Jose, tôi sẽ tới thăm tượng Olympic Black Power (Sức Mạnh Đen ở Thế Vận) nơi khuôn viên đại học San Jose State University, và bục huy chương không người đó sẽ nhắc tôi về Peter Norman, người anh hùng can đảm chân thực nhưng đã bị bỏ quên.

Tác giả cập nhật ngày 13/10/2015: Tác giả viết một blog để đáp ứng với các lời bình ông nhận được từ khi bài viết được chia sẻ ào ạt: " Nhà Văn Trong Bài Viết Đó.”

Trang Films For Action cập nhật ngày 18/10/2015: Trong tuần lễ từ khi chúng tôi chia sẻ bài viết, bài tuyệt vời này đã được hơn 4 triệu người đọc. Rõ ràng đây là mộtc âu chuyện làm rung động một cách phổ quát, làm thăng hoa và cho thấy mặt đẹp nhất của bản chất con người. Đã có nhiều cuộc thảo luận về bài này từ đó, và một trong các chủ đề là về tượng đài ở San Jose. Nơi tượng đài này, vị trí Peter Norman đứng bị bỏ trống, làm nhiều người kêu gọi hãy thêm tượng Norman vào. Nhưng đó lại không phải là điều Norman muốn. Trong cuộc phỏng vấn của Democracy Now, lực sĩ John Carlos giải thích rằng Norman muốn chỗ anh đứng bỏ trống để bất kỳ ai tới thăm tượng sẽ có thể đứng vào nơi đó và để chụp hình cho thấy họ đứng đoàn kết với Smith và Carlos, y như Norman đã làm năm 1968. Peter Norman, chúng tôi chào vinh danh anh.

(Bản văn gốc của  nhà văn Ý Riccardo Gazzaniga. Dịch sang tiếng Anh và bình luận do Alexa Combs Dieffenbach. Phan Tấn Hải dịch sang tiếng Việt.)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tin nhạc sĩ Đan Thọ tác giả nhạc phẩm Chiều Tím qua đời ngày 4-9-2023, tại Texas, Hoa Kỳ, hưởng thọ 99 tuổi, gợi nhớ kỷ niệm ca nhạc thời niên thiếu của tôi ở quê nhà...
Nhạc sĩ Đan Thọ qua đời ngày 4 tháng Chín năm 2023, thành phố Houston, Texas, hưởng đại thọ 99 tuổi. An giấc nghìn thu ngày 18 tháng Chín, tại Nhà Quàn Vĩnh Cửu (Chapel of Eternal Peace at Forest Park), Houston, Texas. Với tuổi ta, nhạc sĩ được bách niên (100 tuổi) tuổi hạc đại thượng thọ trên cõi trần...
Vào giữa thập niên 1980s, phổ biến trong nước Triệu Đóa Hoa Hồng, tuy là bản nhạc trữ tình với mối tình dang dở nhưng lời Việt, nhạc Liên Xô nên tôi bị “dị ứng” nên chẳng để ý, dù sau nầy với ca sĩ hải ngoại…
Chúng ta không biết phải dịch chữ “immersive art” như thế nào. Khái niệm này chỉ mới xuất hiện vài năm nay, mặc dù đã xuất hiện, phần nào, trong các loại hình nghệ thuật khác, từ cả nhiều thế kỷ trước. Hình như triển lãm “immersive art” lần đầu tiên ở Los Angeles và Las Vegas là đầu năm 2022, với tranh Van Gogh. Phòng triển lảm sử dụng hình ảnh, âm thanh, không gian, sự chuyển động của màu sắc để làm cho bạn, người khán giả, trở thành một người đang tắm gội trong không gian nghệ thuật của họa sĩ Van Gogh (1853-1890). Tại sao chọn Van Gogh để triển lãm đầu tiên cũng chưa rõ, có lẽ vì tranh họa sĩ này sống động, dữ dội hơn nhiều họa sĩ khác, hấp dẫn hơn với dân Nam California. Có thể dịch chữ “immersive art” là hội họa “trải nghiệm hòa nhập” hay “trải nghiệm nhập vai” – bởi vì, khán giả tự thấy mình trở thành một phần của tác phầm đang chuyển động giữa thế giới màu sắc của họa sĩ.
“Đẹp là gì?” Người đầu tiên chính thức đặt ra câu hỏi căn bản này có lẽ là Socrates (469-399 TCN), và chính ông đã trả lời: “Đẹp là cái thích thú do tai nghe mắt thấy”. Plato (427—347 TCN) cho rằng “Vẻ đẹp là hình ảnh nhất quán và không thể thay đổi của những điều tốt nhất, tinh tế nhất.” Ông cũng là người đầu tiên đưa ra một nền tảng siêu hình về cái đẹp: không dừng lại ở cái đẹp hữu hình, mà đi tìm những giá trị siêu cao vô hình. Theo Immanuel Kant (1724-1804), vẻ đẹp là sự hài hòa giữa hình dáng và nội dung, là thứ khiến chúng ta cảm nhận sự tinh tế và thỏa mãn. Kant cho rằng cái đẹp gồm hai cảm nhận: cảm quan về sự cao cả và cảm quan về thẩm mỹ. Trong cả hai trường hợp, sự xúc động đều gây thích thú nhưng theo hai cách khác nhau: ý nghĩa cao cả khiến trái tim cảm động, còn mỹ thuật làm say mê trí óc của cặp mắt. Với tôn giáo thì vẻ đẹp còn liên quan đến niềm tin.
Ales Pushkin là một họa sĩ độc đáo. Anh là người đã yêu đất nước Belarus nồng nàn, tới mức nhiều lần đứng ra biểu tình đòi cho Belarus gia nhập NATO khi nhìn thấy Nga chiếm vùng Crimea của Ukraine, đã vẽ nhiều họa phẩm chống Tổng Thống Nga Vladimir Putin, bất kể có những cuộc biểu tình chỉ có đơn độc một mình anh ra phố đứng. Anh cũng là người yêu thương Ky tô giáo nồng nàn, đã thực hiện những tác phẩm trang trí nhà thờ, và sau khi nhiều lần vào tù, ra khám anh tâm sự với bạn hữu rằng đời anh chỉ sợ duy nhất có Chúa Trời. Bây giờ, Ales Pushkin (1965 - 2023) đã từ trần trong nhà tù Belarus. Bản tin hôm 12/7/2023 của AP ghi rằng, Ales Pushkin, một họa sĩ và là một nhà hoạt động chính trị người Belarus, người thường xuyên chỉ trích vị Tổng thống độc tài Alexander Lukashenko, đã chết trong tù hôm thứ Ba 11/7/2023 khi đang thọ án 5 năm.
Nhạc sĩ Trần Lê Việt, tác giả của bản nhạc tù quen thuộc, được mọi người nhắc đến, nghe lại vào các dịp kỷ niệm 30 tháng 4 hằng năm: Tháng Tư Đen (hay còn được nhớ nhất với cái tên Tháng Tư 29 ngày 31 đêm) trong dịp sinh nhật thứ 72 đã “được” ngồi xe lăn đi chầm chậm về phía cuối đường (đời). Chàng lãng tử với cây đàn nay không còn có thể “lãng tử” được nữa, dù cây đàn vẫn còn đó, vẫn còn là niềm vui của mỗi ngày, mỗi phút, mỗi giây chàng không phải đánh vật với bệnh tật...
Câu chuyện bắt đầu, một người kể: “Sở dĩ con kên kên sói đầu vì nó ăn mít. Nó đút đầu vào ruột trái mít đục khoét. Mủ mít dính chặt lông. Khi rút đầu ra, lông dính lại. Đầu trọc lóc.” Người thứ hai lên tiếng: “Nói vô lý. Kên kên ăn xác chết, ăn đồ hôi thúi. Mít có mùi thơm. Kên kên không ăn đồ thơm.” Người thứ nhất trả lời: “Nói có lý nhưng xét ra vô lý. Kên kên không ăn mít thường nhưng ăn Sầu riêng. Mít Sầu riêng hôi lắm.” “Nói vô lý. Sầu riêng thơm kiểu khác. Cả triệu người ăn. Cả triệu người ghiền. Điên hay sao mà ăn đồ hôi.” “Bà thấy thơm nhưng tui thấy hôi. Quyền tự do mà. Cả triệu người không ăn Sầu riêng. Cả triệu người thấy Sầu riêng hôi.” “Nói tào lao. Hoa thì thơm. Phân thì hôi. Ai có thể ngửi thấy hầm lù thơm?” “Có thể hôi thúi, nhưng ở đó lâu ngày, quen đi. Thúi cũng như thơm. Giống những người ở xung quanh Kinh Nước Đen.”
Trước sự hâm mộ cuồng nhiệt nhưng không mấy ngạc nhiên, bức chân dung cuối cùng được vẽ bởi họa sĩ Gustav Klimt đã được bán hôm nay với giá bán đấu giá kỷ lục ở châu Âu, 85.3 triệu bảng Anh (tính luôn cả lệ phí giao dịch) tại buổi bán đấu giá nghệ thuật của Sotheby's ở London chiều 27 tháng 6, tờ báo nghệ thuật The Art Newspaper đưa tin.
Cuộc cách mạng không tiếng súng của phong trào dân chủ Thái Lan đã thành công trong cuộc bầu cử giữa tháng 5/2023, với phiếu của giới trẻ và những người có tinh thần dân chủ đã vượt xa phiếu của những người thân chính quyên quân sự. Một trong những người dẫn đầu phong trào đòi thay đổi thể chế, đòi giảm vai trò chính trị của quân đội, đòi xét lại một đạo luật gây tranh cãi chống lại việc xúc phạm chế độ quân chủ… là doanh nhân trẻ Pita Limjaroenrat (sinh năm 1980), từng du học tại Hoa Kỳ và bây giờ là lãnh đạo Đảng Move Forward (Đảng Tiến Lên). Với liên minh nhiều đảng, Pita dự kiến sẽ là Thủ Tướng tương lai, nếu chính quyền quân đội Thái Lan không tìm được cớ gì để cản trở nữa. Nhưng bây giờ, Pita đang bị điều tra về thủ tục. Ủy ban bầu cử Thái Lan đang xem xét liệu Pita có cố ý không đủ tư cách để ghi danh ứng cử viên quốc hội hay không, bởi vì Pita có sở hữu cổ phần trong một công ty truyền thông, vốn là bị cấm theo quy tắc bầu cử.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.