Trang Thơ Thứ Bẩy

13/01/202407:19:00(Xem: 1134)
nghieu-de
Tranh Nghiêu Đề.



LÊ CHIỀU GIANG

 

Khói của nhang tàn

 

Gió Sài Gòn làm chết tươi

đất Bắc

Ta đứng giữa lòng Hà Nội phấn son

Ánh đèn đêm và                   

Phố sá chao nghiêng

Lòng thoi thóp. Nhớ

trăm bài thơ cũ.

Đôi mắt Sơn Tây cứ nằm trong sách vở

Và phố xưa ghi dấu dáng kiều thơm…

 

Nắng gió không phai

Chữ, nghĩa…nằm im

Phùng Quán xanh xao

Những yêu cùng ghét

Nhọc nhằn quanh đây. Mưa, phố

Trần Dần.

Hoàng Cầm đảo điên viết

Về Kinh Bắc

Ơi những oán hờn

 Đã của trăm năm

 

Ta đốt thơ. Gọi:

Oan hồn tù ngục

Chút khói nhang. Bay

tới cõi

Muôn trùng…

 

*

 

TRẦN HOÀNG VY

 

Lại tuyết

 

Chân như cội gốc sa mù

Đời hơi nước tận căn tu hải hà

Trắng rờn rợn trắng màu da

Phả trong đêm tịch mịch là phù hư?

 

Trời vừa băng giá thiên như

Long lanh lạnh cõi cầm thư giọt huyền

Em từ ảo ảnh uyên nguyên

Trắng da, dài tóc mộng thuyền quyên hoa

 

Tuyết bay phủ chốn sa hà

Ủ trong tám cõi mầm là sinh sôi

Ước xưa nắng rụng mồ hôi

Ngày nghe tuyết chảy đơn côi về chiều!

 

Bốn bề rợn trắng chân chiêu

Ta đi vấp cái mỹ miều lạnh băng...

 

 

Một hôm lòng có sóng

 

Ấy là lúc mắt chạm hoa

Say hương bảng lãng vỡ òa sóng dâng

 

Là khi ta áp… thật gần

Môi thơm run rẩy một lần chạm môi!

 

Là khi hai đứa bên đồi

Nghe tim rạo rực chợt hồi hộp…run…

 

Ngày xa, sóng nhớ …điệp trùng

Cứ thao thiết vỗ vô cùng dư âm…

 

*

 

HOÀNG XUÂN SƠN

 

Hay [là] hoặc[là]

 

Thơ hay

sao lại chết người

       Người hay

       sao lại chết tôi

       bụi bờ

Tôi.  hay cá mú phạc phờ

Sông cạn queo nước bãì bờ khô lâu

       Đời hay

       gió máy lào xào

       Cây tre buồn ngủ

       ngọn sào đi riêng

Tình hay

ở tư thế ghiền

       Người người xúm lại

       cùng khiêng nhau về

 

 

Nhìn anh về

 

(Hậu cảnh trắng toát. Tiếng nằn nì vọng dội đều đều).

 

Thì cứ cầm hộ cho một chốc

không có tính toán không có công

phu hàm dưỡng chi hết cả chỉ

là lật qua lật lại mặt trái mặt

phải những quân bài bày bố sẵn

 

Những đụn rơm làng đùn lên mũ mãng

lóc cóc nhìn anh về thổ mộ xưa

hạ mã quỳ pháo

mùa gặt kín đáo giữa khung trời

lúa vàng tươm mồ hôi bắp vế non

lưng thắt ba đồng ruột tượng

xướng danh đồng đất nẻ phì nhiêu

mẹ phì nhiêu đẻ bầy con cáo

cầy phì lũ

bệnh trời nhiệt thán ngồi chơi lâu

mấy tay anh chị âm mưu quần thảo

anh phẳng phiu y quỡn bề bề

cà-la-goách nắm đầu lôi đi

thì về ngồi chiếu xanh

chiếu bí. tướng

 

(Tiếng nằn nì vọng dội hồi hai).

 

Mở ra đi em

sấp ngửa này có mình mình biết

con trốt hốt đi kho tàng

mà thế gian ì xèo vẫn sống

mở ra đi

mở hi hí mi rèm e lệ

mở he hé răng khểnh cười duyên

mở chói chan hạnh phúc ngùi ngùi

mở toang hoác

thân nhà

bụng biển

sấp ngửa này

phên trào

dậu hứng

 

Ôm lâu.  bia.  cuồng nộ

tệ hại bùng nhùng cái giải

rút

bao bì láng trơn

ồ gái đi đàng nào

nhìn anh về tháng năm bụi phỉ

(bụi ngoài đời bám riết hồn du)

chống chõi cuồng lưu đất cồn

đẩy đưa nhằm cơn bão

bữa không thức gì đá mạnh văng vào nông sâu

những chiếc lon thời thượng

 

Núm hồng bật đèn

xanh

thâm chốn mẹ

 

*

 

LÊ HƯNG TIẾN

 

Cô bé và những người lạ

Quả tim được lôi ra từ trong túi thời gian
Mỗi tên mỗi tuổi thức miệt vườn xưa sau muộn
Cô bé vẫn hao gầy vầng trăng khuyết
Và thới từng thớ thịt lên miệng đất thờn bơn
Khoả nước trung trinh.

Cô bé đẹp khi mùa về rầu lá
Có anh nào lạ dẫm ướt vạt sương

Cô bé buồn khi chiều nghiêng đổ
Có anh nào lạ vỗ mành tiếng chuông

Cô bé giận khi bắt đầu đến
Có anh nào lạ nhớ quên mùa sau

Cô bé khóc khi lòng phố vắng
Có anh nào lạ giăng sợi hồng ngang vai

Cô bé nhớ khi đêm nao đồng bóng
Có anh nào lạ lóng ngóng phía hồn hoang

Quả tim được lôi ra từ trong túi thời gian
Mỗi tên mỗi tuổi chòng vòng nhơ nhớ
Hạnh phúc vẽ bằng máu và vầng trăng khuyết
Cô bé ướt sũng miền con gái
Có anh nào lạ lấy nước mắt đổ vào túi thời gian.


Thiền

Thiền trong sâu mắt
Cái phận người dìm dẫm đong đo
Chia ai chạng vạng rẻo vui buồn
Hoàng hôn có khói

Thiền trong cánh gió
Đôi tay chạm hờ suy tưởng
Niềm hân hoan lạc lõng đôi bờ
Lối vào mù khơi

Thiền trong chân phố
Nỗi nhớ lan can từng ngõ cụt
Ai ngồi tâm tưởng vắt màu thời gian
Bàng bạc rỗng

Thiền trong ngôn ngữ
Trái tim ai giấu chiếc môi ngoan hạt ngọc
Cánh sen hồng ngậm chuỗi chuỗi sát-na từ sâu mắt
Cái phận người phả vào không khí

Thiền trong cội thức
Đêm đem cơ trần cởi sạch mùa riêng cũ
Con đom đóm tạc vào thảm cỏ phù hư
Ban mai lại độc hành


Thời vụ

Bỏ vào khoảng trống
Mấy vụ mùa thơ mảy may hạt
Ít ỏi phù sa

Trên cánh đồng triển hạn
Ai đó cầy xới lên sâu thẳm
Làm con chuồn chuồn đói những vầng thơ.

Khi đường bay lấm tấm vào sợi mưa
Ký ức bốc hơi về đỉnh núi
Ai đó cũ cái hồn nhiên và cái riêng tư

Những cái gọi trong thao thác
Làm hư hao từng mớ cơ thể
Trái tim dong ruổi làm đủ ưu phiền.

Bỏ vào khoảng trống
Tháng ngày qua lỏng chỏng đôi vai cày
Vụ mùa thơ gầy guộc giống

Ném mồ hôi từ sóng mắt
Chiều vật vã cho hồn chữ cày cáy
Vụ mùa thơ chồi lên tư lự

Bỏ vào khoảng trống
Bỏ vào khoảng không.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lê An Thế -- Một du tử làm thơ, từ bao năm nay, tưởng xa xôi, nhưng rất gần. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Xôn xao chút nắng chiều xưa / Nghe ra câu hát đẩy đưa bạt ngàn / Tiếng dần xa, tiếng vọng còn… / Bóng sầu theo những véo von trùng trùng...
Cứ thử đi, ngươi không thể hủy diệt di tích vĩnh hằng của trái tim con người-tình yêu. (Victor Hugo)...
nước Việt dù vui hay buồn | cũng là thứ | mẹ không còn sở hữu | tài sản của bà không nhiều như vậy | tài sản hôm nay ở trên thân thể con người | khi cần, có thể mang thế chấp hay bán đi | là những thứ mà bà không còn giữ được
Chiều 30 tháng Chạp Giáp Thìn, đọc và nhớ thi sĩ Vũ Hoàng Chương sinh ngày 5 tháng Năm, Bính Thìn, 1916, mất ngày 6 tháng Chín, Bính Thìn, 1976 - nguyên vẹn con rồng.
Việt Nam từ xưa theo nền văn minh nông nghiệp lúa nước, nên thời vụ của cây trái hoa lúa lập trình nhịp sống con người, từ nếp sống cho đến những tin tưởng tâm linh. Khi đồng lúa nghỉ ngơi, hoa đào hoa mai chớm nụ đầu mùa, người dâ n quay về tụ tập vui chơi ăn uống, từ đấy mà có một mỹ tục gọi là Tết (được phiên âm theo chữ Hán là Tiết, có nghĩa là đốt tre đốt trúc, nghĩa rộng là một đoạn thời gian trong năm), rơi vào lúc cuối một năm, thời điểm kết sổ và dấy lên niềm hy vọng cho năm mới. Gần đây có người đặt vấn đề có nên bỏ tục ăn Tết không. Tại sao vậy? Cây cỏ còn sửa mình để thay lá đơm hoa đón khí tiết đẹp của trời đất, can cớ chi con người phải bỏ niềm vui mừng đón năm mới với một mỹ tục đẹp đẽ là Ăn Tết? miễn là đừng Tháng Giêng là tháng ăn chơi (ca dao) thôi.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là một vị học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền và đã bị cầm tù trong nhiều năm. Năm 1998, Hòa Thượng được tổ chức Human Rights Watch tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards. Hòa Thượng là Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Hòa Thượng thông thạo tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Hòa Thượng được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật, được coi là nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đã soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển.
Thông cao cuộn vỏ ngự hàn / quả khô chặt ruột vén quang nửa đồi / cõng lưng ngày thở trả hơi / em sang giúp nhóm mớ phơi củi già...
anh xin lại đôi bàn tay cầm bút / làm những bài thơ xuôi / rồi xuân hạ thu đông có mùa nào cho / mây bay về đầu xóm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.