Đêm Tịch Tịnh: Bóng “về Quê”

24/10/202112:44:00(Xem: 1379)
NTKM_Dem_Cover_PreOrder
Hình bìa tập thơ Đêm -  Nguyễn Thị Khánh Minh do Văn Học Press xuất bản

 


Tôi có một duyên may được quen thân với hai tác giả có sức sáng tác rất đều đặn và bền bỉ: Đó là Nguyễn Lương Vỵ và Nguyễn Thị Khánh Minh. Hai người là những người bạn chí thân ngoài đời. Nhưng ngoài việc tương trợ lẫn nhau lúc cần thiết và hoạn nạn, họ còn hỗ tương nhau trên lĩnh vực sáng tác. Thật vậy, nếu như chủ đề xuyên suốt các sáng tác của Nguyễn Lương Vỵ là Âm Thanh, thì ở Khánh Minh chủ đề xuyên suốt các sáng tác của chị là Ánh Sáng. Âm thanh và ánh sáng, đó là hai thứ mà tất cả chúng ta bị vây phủ bởi, bị ném vào đó, và luôn luôn phải tương tác với hai thứ này suốt cuộc bình sinh.

Bị ném vào cuộc bình sinh, với cả một đại dương thông tin, những âm thanh và hình ảnh luôn luôn đập vào tai và mắt chúng ta, và hầu như với đại đa số, chúng chỉ sinh ra những buồn vui thương ghét bất chợt. Nhưng ở Thi Sĩ, kết quả của sự tương tác với âm thanh và ánh sáng là những thi phẩm.

 

Ở Nguyễn Lương Vỵ, từ lúc “Âm nhập cốt”, những tác phẩm của anh là những cung bậc thăng trầm của Âm Thanh. Đó là những Huyết Âm, Huyền Âm, Tinh Âm, được Nguyễn Lương Vỵ Hòa Âm Âm Âm Âm… trên nền của “Nốt Lặng Tịch Liêu”. Thơ ở Nguyễn Lương Vỵ là cuộc hành trình của âm thanh đi về sự tĩnh lặng của vô ngôn.

Ở Nguyễn Thị Khánh Minh, từ “Ký Ức Của Bóng”, những tác phẩm của chị là những phản xạ, khúc xạ của Ánh Sáng. Đó là những bóng những hình được sàng lọc qua giác quan thi sĩ và phản chiếu trên tấm gương nhận thức trong veo, và trái tim nhân ái. Thơ ở Nguyễn Thị Khánh Minh là cuộc hành trình của ánh sáng đi về sự tịch tịnh của màn đêm.

 

Ví như tất cả âm thanh đều được cảm nhận nhờ có sự tĩnh lặng, cũng vậy tất cả những bóng, những hình (và cả ánh sáng) được cảm nhận là nhờ có màn đêm. Vì thế đọc tập thơ Đêm của Khánh Minh là theo bước chân nữ sĩ “Về Quê” của “Bóng” và “Hình”, là nhận ra mối thâm tình giữa Ánh Sáng và Bóng Tối, là nhận ra vai trò của “tấm gương nhận thức” - phản chiếu “phía bên kia” của những hình do ánh sáng tạo ra, tức là Bóng.

Tập Thơ Đêm của Khánh Minh được chia làm hai phần: Bóng Sáng - Bóng Tối, xuyên qua những chủ đề: Mẹ, Cha, Nơi Dừng Lại Của Thời Gian Vĩnh Cửu. Cấu trúc tập thơ bao gồm hai cặp đối lập: (Bóng Sáng, Bóng Tối), (Mẹ, Cha) và Một Điểm Dừng (của thời gian vĩnh cửu).

 

Sáng và tối, mẹ và cha, âm và dương... đó là cánh cửa nhị nguyên đối đãi mở ra cái muôn màu muôn vẻ của đời sống này. Sáng và tối tuần hoàn lẫn nhau cho chúng ta cảm nhận về thời gian, cho nhãn quan chúng ta cảm nhận về bóng và hình. Bóng và hình này qua giác quan thi sĩ Khánh Minh và được nữ sĩ ghi lại cho nhân thế qua thi tập Ký Ức Của Bóng. Sau đó Khánh Minh “giải thoát” cho Bóng khỏi cái tạm bợ của một cảm xúc bất chợt, thả Bóng và cảnh giới miên viễn của bầu trời Thi Ca qua tập Bóng Bay Gió Ơi. Lần này trở lại với tập thơ Đêm, Bóng “về quê” thăm lại nguồn cội của chính mình. Chính trong Đêm Bóng ẩn mình an trú trong tịch tịnh. Cánh cửa nhị nguyên sáng tối khép lại, tịch tịnh của màn Đêm hiển lộ như là một biểu tượng cho cảnh giới không có thời gian mà Khánh Minh tạm gọi là “Nơi Dừng Lại Của Thời Gian Vĩnh Cửu”.

Ngay trong phần 1, Khánh Minh giới thiệu đến độc giả một khái niệm lạ: Bóng Sáng. Đa số chúng ta quen thuộc với từ “Bóng Tối” nhưng ít khi nghe ai nói tới “Bóng Sáng”! (Đối với riêng tôi, đây là lần đầu tiên tôi được biết tới từ này: trong thi tập Đêm của Khánh Minh).

 

Vậy thì “Bóng Sáng” là gì? Nó được cảm nhận như thế nào?

Bóng trôi ra ngoài cửa sổ

Như với theo

Một cái gì đó vụt bay

Gió bay đi

Đêm bay đi

Giấc mơ bay đi

Chiếc cửa sổ bay đi

Nỗi chờ đợi cũng bay đi

Không còn gì

Không còn ai còn tôi

Rưng rưng

Bóng sáng

Người để lại

 

(Phần 1. Bóng Sáng, Bài Số 1)

 

Thú thật đoạn thơ này thú vị và khiến tôi suy nghĩ mãi không biết “Bóng Sáng người để lại” là gì?

 

Bóng trôi ra ngoài cửa sổ, một cái gì đó vụt bay… Tất cả đều bay đi, không còn gì, không còn cả chính tôi nhưng còn cái “bóng sáng” người để lại?

 

Ý thơ rất lạ, một khái niệm mới được thiết lập “bóng sáng” như là “cái-còn-lại” của cái “không-còn-gì”, trong đó cái “không-còn-gì” bao gồm luôn cả không còn cả chính tôi!

 

Và đây nữa một ý tứ rất lạ cho độc giả cái nhìn đảo ngược: “Bật đêm lên”

 

Bật đêm lên

Một điểm bất ngờ

Vành trăng úp mặt hổ ngươi

Tôi ngửa mặt

Gặp gỡ

Trắng. Đen


(Phần 1. Bóng Sáng. Bài Số 1)

Mối liên hệ sáng-tối và sự cảm nhận về cái miên viễn của thời gian được Khánh Minh đưa vào thi ca như một thách đố:

Mầu rêu

Xóa hết đá xanh

Đố đêm xóa nổi

Cái vành vạnh trăng…

(Phần 1. Bóng Sáng, Bài Số 4)

Vẽ hoài trong đêm một vòng

Lăn hoài trên một đường cong rất mềm

Không lấm một chút nào đêm…

 

(Phần 1. Bóng Sáng, Bài Số 5)

 

Đố ai xóa nổi cái vành vạnh trăng? Đố ai làm lấm một chút nào đêm? Những câu hỏi đố rất tài tình như những công án Thiền Thoại Đầu khéo léo hướng tâm thức độc giả đến những bùng vỡ tri ngộ về lằn ranh của những việc khả-dĩ và bất-khả-dĩ.

Trong Thiền Học, có một câu dạy nổi tiếng của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ mà các hành giả đều thuộc lòng: “Phản Quan Tự Kỷ bổn phận sự, bất tòng tha đắc.” Nghĩa ẩn dụ của “phản quan tự kỷ” là “soi lại để biết rõ chính mình”. Tuy nhiên nghĩa đen của ẩn dụ này là “phản quang”, tức là bẻ cong ánh sáng! Câu hỏi ở đây là: Làm thế nào để có thể bẻ cong ánh sáng? Nếu là một lực sĩ, người đó có thể bẻ cong một thanh sắt, nhưng không thể nào bẻ nổi một tia sáng bằng sức mạnh. Cách duy nhất để bẻ cong ánh sáng là ứng dụng nguyên lý phản xạ của ánh sáng trên một mặt gương.

 

Cấu trúc căn bản của một tấm gương là một lớp thủy tinh và một lớp mạ bạc. Vai trò của lớp mạ bạc vô cùng quan trọng cho chức năng phản chiếu hình bóng của gương. Thiếu lớp mạ bạc này tấm gương sẽ không còn là gương nữa và đánh mất khả năng phản xạ ánh sáng trên bề mặt của chính nó.

 

Tâm thức của con người thường được ví dụ như tấm gương. Tâm nhận thức các hình sắc từ con mắt và phản xạ hình đó thành bóng (thường là ngôn ngữ) qua tấm gương soi của nhận thức. Trong đó “lớp mạ bạc” của “tấm gương tâm” chính là những kinh nghiệm nhận thức lưu trữ dưới dạng ký ức.

 

Vai trò của “lớp mạ bạc” của “tấm gương tâm thức” này rất to lớn, nó quyết định thế giới này sẽ được phản chiếu ra sao. Chính vì thế hành động “soi gương” là “tự kỷ” là tự tìm hiểu về chính mình và cũng có nghĩa là tìm hiểu về cách thức mà chính mình phản chiếu về thế giới.

 

Muốn “bách chiến bách thắng” thì cần phải, “tri bỉ tri kỷ”. Muốn “tri kỷ” thì phải biết cách “soi gương”. Chúng ta hãy cùng dõi theo cách Khánh Minh “soi gương” tìm bóng qua bài thơ “Phía bên kia”

 

1.

Soi gương thảng thốt mặt mày

Mở hai con mắt không đầy được tôi

Thốt lên ngọng nghịu những lời

Bóng trong gương hỏi, tiếng người đó chăng?

Soi gương tìm nửa vầng trăng

Gương nhòa một bóng đêm, giăng bẫy người

Có đem theo được nụ cười

Đi qua bóng tối để trời sáng trăng?

 

2.

Soi đêm bóng hút hình sâu

Mắt kia nhìn nọ, lạ nhau mặt người

Bật lên thành tiếng đười ươi

Tàn hơi giễu một âm cười bon chen

Soi đêm bóng tối ngòm đen

Vực lên con mắt mà lèn xanh cao

Chút kia cười rất ngọt ngào

Thốt ta tiếng nói xin chào phôi pha

Đêm tròn nở một bông hoa

Đứt lìa cuống rún khóc òa sơ sinh

Lần theo tiếng hót bình minh

Nghe trong nắng vỡ một hình như. Quen

Mặt mừng tay bắt gọi tên

Ánh đêm sắc lẻm. Nhớ quên. Chia lìa

Thì rồi mai nọ mốt kia

Đem hình vá bóng sợ gì một-hai

 

Sau khi thành tựu việc “soi gương” thi sĩ thành tựu việc “tri kỷ”, tức là “biết rõ chính mình” cho nên mới có sự hội ngộ vô cùng hy hữu tay bắt mặt mừng giữa “hình” và “bóng”. Và cũng từ lần hội ngộ đó, kẻ soi gương giải thoát khỏi tất cả sợ hãi: Cánh cửa nhị nguyên của “hình-bóng” và “một-hai” không còn làm cho kẻ biết “soi gương” hoảng sợ nữa:

 

Thì rồi mai nọ mốt kia

Đem hình vá bóng sợ gì một-hai

 

Sự hội ngộ “Mặt mừng tay bắt gọi tên” giữa “ta-và-ta” không phải xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật mà xảy ra trong bối cảnh của “Ánh đêm sắc lẻm” của sự nội quán: Trong đó lằn ranh giữa “Nhớ” và “Quên” quyết định sự “chia lìa” hay “không chia lìa”! Hay là nói cách khác: Chính “Nhớ” và “Quên” quyết định cái gì “Có” cái gì “Không”, cái gì “Hữu” cái gì “Vô”.

 

Đối với riêng tôi, bốn câu thơ cuối của bài “Phía Bên Kia” là bốn câu thơ xuất thần của sự “phản quan tự kỷ”, và có giá trị rất lớn trên cả hai lĩnh vực Thi Ca và Tư Tưởng. Hơn thế nữa, nó còn có thể được chiêm nghiệm thậm sâu để ứng dụng vào đời sống hàng ngày.

 

Thi Tập Đêm là cuộc hành trình tiếp nối của Ánh Sáng và của Bóng sau bao nhiêu phản xạ, khúc xạ khắp chốn nhân gian nay trở Về Quê của Màn Đêm Tịch Tịnh. Rồi thì sao?

Thì rồi mai nọ mốt kia

 

Đem hình vá bóng sợ gì một-hai.

 

TÔ ĐĂNG KHOA

15.9.2021


(Đọc tập thơ Đêm của Nguyễn Thị Khánh Minh)

Kính Tặng: Người Biết "Soi Gương" / hay là người nhật ký của Bóng (Ký Ức Của Bóng)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lê An Thế -- Một du tử làm thơ, từ bao năm nay, tưởng xa xôi, nhưng rất gần. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Xôn xao chút nắng chiều xưa / Nghe ra câu hát đẩy đưa bạt ngàn / Tiếng dần xa, tiếng vọng còn… / Bóng sầu theo những véo von trùng trùng...
Cứ thử đi, ngươi không thể hủy diệt di tích vĩnh hằng của trái tim con người-tình yêu. (Victor Hugo)...
nước Việt dù vui hay buồn | cũng là thứ | mẹ không còn sở hữu | tài sản của bà không nhiều như vậy | tài sản hôm nay ở trên thân thể con người | khi cần, có thể mang thế chấp hay bán đi | là những thứ mà bà không còn giữ được
Chiều 30 tháng Chạp Giáp Thìn, đọc và nhớ thi sĩ Vũ Hoàng Chương sinh ngày 5 tháng Năm, Bính Thìn, 1916, mất ngày 6 tháng Chín, Bính Thìn, 1976 - nguyên vẹn con rồng.
Việt Nam từ xưa theo nền văn minh nông nghiệp lúa nước, nên thời vụ của cây trái hoa lúa lập trình nhịp sống con người, từ nếp sống cho đến những tin tưởng tâm linh. Khi đồng lúa nghỉ ngơi, hoa đào hoa mai chớm nụ đầu mùa, người dâ n quay về tụ tập vui chơi ăn uống, từ đấy mà có một mỹ tục gọi là Tết (được phiên âm theo chữ Hán là Tiết, có nghĩa là đốt tre đốt trúc, nghĩa rộng là một đoạn thời gian trong năm), rơi vào lúc cuối một năm, thời điểm kết sổ và dấy lên niềm hy vọng cho năm mới. Gần đây có người đặt vấn đề có nên bỏ tục ăn Tết không. Tại sao vậy? Cây cỏ còn sửa mình để thay lá đơm hoa đón khí tiết đẹp của trời đất, can cớ chi con người phải bỏ niềm vui mừng đón năm mới với một mỹ tục đẹp đẽ là Ăn Tết? miễn là đừng Tháng Giêng là tháng ăn chơi (ca dao) thôi.
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là một vị học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền và đã bị cầm tù trong nhiều năm. Năm 1998, Hòa Thượng được tổ chức Human Rights Watch tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards. Hòa Thượng là Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Hòa Thượng thông thạo tiếng Trung Quốc, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Hòa Thượng được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật, được coi là nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đã soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển.
Thông cao cuộn vỏ ngự hàn / quả khô chặt ruột vén quang nửa đồi / cõng lưng ngày thở trả hơi / em sang giúp nhóm mớ phơi củi già...
anh xin lại đôi bàn tay cầm bút / làm những bài thơ xuôi / rồi xuân hạ thu đông có mùa nào cho / mây bay về đầu xóm...