Hôm nay,  

Bữa nhậu chiều

10/12/202312:05:00(View: 3276)
Truyện

bua nhau

May muốn gặp anh em chú bác cô dì một lần. Cũng đã hơn bốn mươi lăm năm, hơn bốn mươi lăm năm anh em thất tán, kẻ xiêu lạc ngõ này, người xiêu lạc ngõ kia. Nghĩa là qua cuộc đổi đời. Ngày đó May còn là một cô nữ sinh mười sáu tuổi, tóc thề thả chấm ngang vai, áo dài trắng thướt tha, ôm tập vở đến trường nữ trung học. Bỗng nhiên, như cuốn phim đang chiếu trong rạp, khán giả đang xem ngon lành, hấp dẫn, bị cắt đứt. Khán giả có la ó phản đối bao nhiêu rồi cũng thôi. May nghỉ học. Và từ đó anh em thất tán nhau. Người ta thường truyền miệng, ngày ấy là "ngày đứt phim".
    Từ đó, người theo bên này, kẻ theo bên kia, giằng xé, nhìn nhau bằng đôi mắt hình viên đạn, dè chừng, coi như không thân thiện, có kẻ còn chơi nhau sát ván. Những ganh ghét, thù oán cá nhân đều được đem ra tung hứng, đến nỗi, anh em, bà con trở nên hận thù, hay ít ra cũng xa cách.
    Có người kể rằng, ngày trước có ông thầy đuổi học một học trò ngỗ nghịch, chọc phá, gây ồn ào, náo loạn trong lớp. Anh ta chòng ghẹo nữ sinh, nói tục, xé ngang tà áo dài trắng của một cô, lộ ra một mảng ngực trắng phau, núm vú đỏ hồng. Cô nữ sinh chỉ biết khóc, co ro trong một xó. Ông thầy tức quá, bèn bợp tai đứa học trò ngỗ nghịch kia và lên văn phòng kể tội hắn với thầy hiệu trưởng. Đề nghị đuổi học. Đứa học trò tức quá, về nhà có dịp móc nối với phía bên kia, liền "nhảy núi".
    Đến ngày đứt phim, hắn trở về với nón tai bèo, khẩu AK, đến nhà ông thầy, kêu thấy ra bắn giữa sân, ông thầy chết miệng còn há hốc, chưa kịp nhận ra đứa học trò cũ, cũng không hiểu mình bị tội gì. Thầy chết, máu loang tung tóe, khiến ai cũng le lưỡi, sợ hãi.
    Nhưng ngày đó, đã qua lâu quá rồi. Mấy ông cậu, ông chú, ông bác "ngày đứt phim" còn trẻ măng, nay đã theo ông bà ông vải gần hết rồi. Chỉ còn đám trẻ loi choi, cuối cùng cũng tụ hội tại Mỹ. Nên May muốn mời mấy anh, chị, em, tới nhà mình chơi, lai rai chút đỉnh với ông xã. Ông chồng May cũng thích "lai rai" nên đồng ý ngay, cái điều May đề nghị.
    – Anh à, anh em bà con chú bác cô dì của em ở đây có khoảng đâu mười người, nhà mình có khu sân sau, chiều mát, em làm chút đồ ăn, kêu mấy người tới chơi, lai rai với anh, nhen.
    Hoạt thì nghe May nói, nghĩ ngay tới mấy chai bia Hein mà từ lâu, May không cho anh uống, nàng vẫn dè chừng, có phần dọa dẫm, anh cẩn thận đó, trong bia đường nhiều lắm, có nguy cơ cao đường đó nghe anh. Nay, nhân dịp này, vừa chìu lòng May, vừa được uống bia thỏa thích, dại gì không đồng ý.
    – Anh OK em à, anh chị em em lâu rồi không gặp, gặp lại ở đây thì vui, em tha hồ tâm sự.
    – Vậy nhe anh. Em sẽ làm bánh cuốn ram quê em để đãi khách, để nhớ lại những ngày nhỏ, bà nội thường làm cho tụi em ăn.
    Bánh ram cuốn là một món ăn dân dã, chỉ có từ Nha Trang trở ra Quảng Nam, Quảng Ngãi. Tuy gọi là ram, nhưng mỗi nơi có lối làm riêng. Món ram thơm ngon, giòn rụm quấn bánh tráng rau sống, cũng làm nhiều người nhớ về thời thơ ấu ở quê, mẹ thường làm cho ăn. May điện thoại cho những người thân, hẹn, nói với từng người, đúng 4 giờ chiều nghe anh, chị. Giờ này trời đã mát, ngồi ngoài sân nhậu mới vui.
    Bữa tiệc nhậu toàn là anh em chú bác cô cậu dì, những người "ngày đứt phim" mới mười sáu, mười bảy, bây giờ ai cũng đã lên trên hàng sáu, có người đã ngồi sui, có người đã có cháu nội, ngoại. Thời gian qua choáng ngợp cuộc đời.
    Anh Dinh mang đến môt hộp lê Hàn quốc, những trái lê màu vàng ươm. Anh chị Thụy thì đem một thùng táo tàu. Và nhiều anh chị em khác nữa. Riêng anh Duy, chỉ một mình anh tới, không có người đàn bà đi theo, kệ nệ vác thùng bia Hein 24 chai, lên cầu thang lầu 2 của căn nhà. Khi lên tới nơi, khuôn mặt đỏ hồng của Duy đã thấm mồ hôi, thở dốc. Duy là người đến trễ nhất, ai cũng đã ngồi vô bàn, đã tâm sự hỏi thăm sức khỏe nhau, đã cụng gần hết một chai Ken. Thấy Duy mở cửa bước vào, ai cũng đứng bật lên, tiếp đón. May đon đả nhất:
    –  Anh Duy, tìm không ra nhà sao đến trễ vậy anh?
    Duy con ông chú, nhưng lớn tuổi hơn May, nên nàng vẫn gọi là anh. Duy cười, nụ cười của bốn mươi lăm năm về trước. Nụ cười của chàng thanh niên tươi rói hai mươi tuổi.
    – Chào các anh chị. Thật vạn hạnh gặp gỡ anh chị ở đây.
    Anh đến bắt tay từng người, ai anh cũng cầm tay anh thật lâu. Có người lên tiếng nói (kháy):
    – Anh Duy cũng qua Mỹ ha? Nhớ năm xưa, ngày xa lơ xa lắc ấy. Hồi đó anh Duy "cách mạng" dữ lắm mà.
    Duy cười, nụ cười có chút e thẹn, ngượng ngùng. Chàng cố biện hộ cho mình:
    – Chuyện cũ rồi mà! Có một nhà văn Nga đã nói, năm hai mươi tuổi ai không theo cộng sản là người không có quả tim. Năm bốn mươi tuổi, ai còn theo cộng sản là người không có cái đầu.
    Câu nói có vẻ triết lý sâu xa.
    Ai cũng nhớ ngày đó, Duy đã hoạt động rất hăng say trong đoàn thanh niên sinh viên Sài Gòn. Đến ngày đứt phim, anh về quê nhận lãnh một chức vụ trong ban thanh niên quận ủy. Anh hăng say hoạt động, chạy bên này, sang bên kia, kêu gọi, đẩy mạnh mọi công tác, đảng, đoàn. Thế mà nay cũng đã sang Mỹ, cùng chung với những người cùng lứa tuổi anh, đã vượt biên sống chết trên biển đông.
    Khi Duy an tọa xong, ai cũng nghĩ hôm nay là bữa tiệc vui, sum họp gia đình trên hơn bốn mươi bốn năm. Anh em, bên này, bên kia mới gặp nhau, ngày đó, kẻ đỏ, người vàng, người xanh chia cắt, hận thù nhau. Bây giờ thì đã xa lắc rồi, cái chiến thắng sau cùng là sự họp mặt ở Mỹ. Nay ai cũng lên chức nội, ngoại. Nghĩa là đã thành người lớn tuổi, trên dưới hàng sáu, hàng bảy rồi chứ ít gì đâu.
    Mà người lớn tuổi thì phải rộng lượng, bao la.
    Anh Dinh là người có số tuổi lớn nhất trong đám, lại là có vai vế cao, anh là con người bác cả.
    – Dô đi anh em, bốn mươi bốn năm với bao thăng trầm, anh em mình mới gặp nhau, nên vui lên đi chứ! Dô, dô, dô!
    Mấy người đàn bà cũng dô, nhưng dô nước lọc trong chai hay nước cam, còn mấy anh đàn ông thì ai cũng cầm chai Hein lên tu ngon lành, hết ba mươi phần trăm. Lúc qua chai thứ ba, Duy bắt đầu đỏ mặt. Anh giọng trầm ngâm, tâm sự:
    – Kể lại hồi đó, bây giờ em mới thấy mình ngu. Mười tám tuổi, đang là sinh viên mà theo lệnh ông già đem tiếp tế thuốc men, tiền bạc cho phía bên kia ở tận Long An. Ông già đóng sẵn một thùng cạc tông, biểu mang xuống chợ Long An giao cho người phía bên kia, gặp nhau ngoài phía hông chợ, nói mật khẩu rồi giao hàng. Còn có cả xấp tiền đô nữa, trao tay cho bên đó. Nghĩ mà lạnh người.
    Ông già của Duy tức là chú Chín, là chú, là cậu, những người có mặt ở đây. Ông là tay kinh tài cho phía bên kia. Ông đã làm nhiều phi vụ như Duy vừa kể, sai thằng con trai mới lớn tiếp tế tiền bạc, gạo thóc, thuốc men đến tận các tỉnh miền tây. Chuyến đi nào cũng trót lọt. Duy, khi thì đóng vai người nông dân, người xe ôm, người bộ hành, người bán hàng rong... đủ mọi vai diễn, mục đích là tiếp tế thành công. Lúc đó Duy nghĩ cha mình là người giàu lý tưởng, vì mục đích giải phóng dân tộc mà mạo hiểm làm những chuyện phi thường. Không phi thường sao được, nếu chuyện mà đổ bể, sẽ bị tù cả đám, sẽ mọt gông ở Côn Đảo hay ra pháp trường bị xử bắn là cái chắc.
    Nhưng sau này đứt phim, chú Chín mới thấy được phía bên kia. Nó hiện diện trên cuộc sống với những tư thù tư oán. Người bên kia tìm giết, sát hại, đưa đi tập trung cải tạo những người thua cuộc. Và chú cũng bị cho ra rìa vì gia đình có ông cha là người Việt gốc Hoa. Chú không được tin dùng. Những người bà con trong dòng họ, người người lục tục kéo nhau ra khỏi nước, dù có chết. Tại sao vậy cà? Chú suy nghĩ suốt hai mươi năm, đến năm thứ hai mươi mốt chú vượt biên. Chú đem hết con cái qua Mỹ, bỏ hết gia tài ra để đóng một chiếc thuyền ra khơi. Sống ở Mỹ được mười năm thì chú mất.
    Lại tiếp tục cụng ly, lai rai ba sợi. Với anh Dinh, anh Thụy, anh Duy, bia Hein, nói theo thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn, 40 chai đồ bỏ. Bây giờ mỗi người đã cạn đến chai thứ sáu, sáu lần bốn hai bốn. Đúng là một thùng Hein Hoạt đã mua, đã dự tính, thế là quá đủ. Nhưng anh đã tính sai. Có thể nói các anh ở đây là "hũ chìm". Mỗi người cưa 6 chai mà thấy tỉnh queo. Hoạt thì khoan thai, yên tâm uống vì anh là chủ nhà, say xỉn thì vào giường nằm ngủ có sao, đâu có lái xe mà sợ cảnh sát hốt.
    Anh thấy nên tiếp tục cuộc vui. Anh ra lấy thùng bia của Duy đem tới. Hoạt đến tủ lạnh lấy đá, bỏ vào một cái sô rồi đem cây gắp đá đến bàn. Những chiếc ly được mang ra, tiếp tục, mỗi người một ly cối. Hoạt nói:
    – Mời quý anh tiếp tục. Còn thùng bia này của anh Duy đem đến, không được lạnh nên mình uống đá. Không say không về.
    Khi đến chai thứ bảy, có lẽ nỗi sợ hãi về lái xe bị cảnh sát chộp, cũng ít đi, các anh em dạn dĩ hơn, coi trời bằng vung hơn, dù ai cũng biết rằng, cảnh sát kêu dừng lại khi đang lái xe, qua máy kiểm nghiệm, nồng độ rượu lên trên số quy định là đời tàn. Nhưng bây giờ đang vô cơ, sá gì phương hướng nữa.
    Bàn tiệc chỉ có Duy là nhỏ tuổi hơn, nhưng anh đã trải qua những thăng trầm, bầm giập của cuộc đời, cuộc sống, từ một thanh niên lớn lên, yêu nước tràn đầy trong hồn. Anh đã qua một đời vợ, với hai đứa con trai, nhưng bây giờ không còn gì, người vợ đã ly dị, trước ly dị giả để qua Mỹ, nay trở thành ly dị thiệt. Người vợ cũ không chịu được sự lọc lừa đó. Chàng ôm nỗi buồn đau vào lòng, gặm nhấm theo tháng ngày, một mình một chợ ở Mỹ. Ngày anh qua, đến phi trường Los, vào phòng vệ sinh rửa mặt, thấy giấy vệ sinh lau, chùi, ê hề, không như ở quê nhà, vào toilet, tìm một miếng giấy không ra, phải mua. Nên anh nhận thức ngay, đây là một nơi đáng sống.
    Chàng uống cho quên đời, hôm nay, chàng là em út, nhưng cuộc đời khuấy động trong Duy nhiều uẩn khúc, nên Duy nói nhiều. Nói cũng là một chia sẻ, để làm vơi đi. Đến chai thứ mười hai thì Duy gục xuống. Anh Dinh, anh Thụy, chị Anh, anh chị Quang, lục tục ra về, còn Duy xỉn tại chỗ. May nói với Hoạt:
    – Anh cứ để anh Duy nằm đây. Chút nữa, em dọn dẹp xong, lái xe chở ảnh về.
    Hoạt cũng trong cơn lơ tơ mơ. Chàng biết chàng không thể lái xe được, nên ậm ừ:
    – Em tính thế cũng được. Em đưa anh Duy về hộ anh.

 

– Trần Yên Hòa

 

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Cuộc điện thoại đã dứt mà Tử Linh vẫn còn đứng tần ngần một lúc rồi mới quay trở ra hiên, ngồi xuống cái ghế gỗ mà khi nãy cô đang ngồi, vừa đọc sách, vừa nhâm nhi tách trà nóng và những chiếc bánh madeleine thơm mùi vanilla trước khi tiếng chuông điện thoại từ trong phòng khách buộc cô phải chạy vào...
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng, họ còn kháo nhau là mật thiết hơn cả tam tinh, tam điểm, tam tụ, tam anh… Chẳng cần kết nghĩa đào viên nhưng chúng sống chết có nhau, chưa bao giờ rời nhau một li hay một khoảnh khắc nào. Thỉnh thoảng cũng có xung đột giữa ba đứa nhưng rồi cũng trôi qua êm thấm. Cả ba nương tựa nhau, hỗ trợ nhau, sinh hoạt qua lại với nhau. Thật tình mà nói thì chỉ có hai mới đúng, vì thằng Tưởng vốn là đệ tử ruột của thằng Tâm mà ra, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nào đó nên thiên hạ cho là ba, nói cho cùng thì là bộ bà cũng đúng hay khắt khe bảo bài trùng cũng không sai.
Lật bật đã tới tháng 9 mùa tựu trường. Lòng nao nao nhớ thời học sinh nhỏ nhít đất thần kinh xưa. Ở Huế, mùa tựu trường cũng tưng bừng rộn rịp như bất cứ nơi nào khác trên đất quê nhà. Cũng bâng khuâng luyến tiếc những ngày hè tươi đẹp chóng qua. Cũng nao nức trở lại trường lớp gặp bạn thầy cũ, mới. Có khác chăng mặt mũi mấy cô mấy cậu học trò đều phảng phất một vẻ nghiêm trọng. Làm như mình đã trưởng thành tới nơi!
Cách đây 5 năm ông bà này có cho một cậu sinh viên Việt nam trẻ tuổi, đáng tuổi con cháu xin mướn phòng ở trọ học tại nhà ông bà cho đến đầu năm tới 2025, cậu sinh viên này sẽ tốt nghiệp đại học 4 năm với văn bằng cử nhân
Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước
Nàng tỉ tê với nhỏ bạn về những cuộc “thảo luận” sôi nổi của vợ chồng nàng. Bằng mọi giá, nàng muốn giữ cho đứa con có tuổi thơ tươi đẹp, hạnh phúc. Bao năm qua, đã có lúc nàng buồn rầu nghĩ, mình như con gà đẻ trứng vàng. Chỉ được việc, nhờ biết đẻ trứng vàng. Nàng không dám đề cập đến chuyện tiền bạc, sợ làm chồng buồn, cho rằng nàng cậy sức mạnh kim tiền lấn áp chồng. Nàng rất may mắn trong cuộc sống ngoài xã hội. Chưa ra trường, nàng đã nhận được hợp đồng làm việc với một trong những hãng hàng đầu của nước Đức. Ngược lại, chồng nàng quá lận đận. Cả năm trời, anh chạy đôn, chạy đáo tìm việc, mà vẫn phải nằm nhà. Nàng tự nhủ, tài lộc trời ban, gia đình sống thoải mái, chứ tính toán chi mà mất hòa khí vợ chồng. Tháng tháng, nàng thanh toán nợ to, nợ nhỏ, hàng hàng lớp lớp chi phí tất yếu của xã hội văn minh.
Xíu tiếp tục cuộc hành trình bất tận của mình, đừng tưởng Xíu chơi hoang hay đi rông, phiêu bạt giang hồ vô tích sự. Chính sự lang bạt kỳ hồ của Xíu và anh em nhà Xíu đã đem lại mưa thuận gió hòa, đem lại nguồn sống cho loài người và vạn vật muôn loài. Lần này Xíu quay về lại góc Đông Nam Á châu, nơi có dòng sông thiêng liêng chảy qua.
Tôi không phải là thi sĩ, nhưng chắc cũng giống như những thi nhân của đất Việt, thường gửi gấm tâm tình u uất vào những vần thơ của mình. Những bài thơ viết xong, tôi cặm cụi chép vào nhật ký, xen vào những lời than thân trách phận, hờn mây khóc gió. Cuốn nhật ký, tôi cất kỹ trong ngăn kéo ở cái table de nuit cũ kỹ bên cạnh chiếc giường nhỏ trong phòng ngủ. Cũng may là má chưa lục ra đọc lần nào...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.