Hôm nay,  

Cơm rắc tóp mỡ

7/1/202308:21:00(View: 4044)
Truyện

rice

Ở Mỹ người ta không ăn mỡ của động vật như heo, bò, gà vịt, vì sợ tăng cholesterol. Nếu ăn mỡ họ ăn bacon, thịt ba chỉ ướp muối. Họ chiên bacon cho giòn, ăn kèm với trứng chiên và bánh mì. Một món điểm tâm rất được nhiều người yêu thích. Tôi thích dùng mỡ nhưng chỉ dùng ở một vài món. Mỡ heo, tôi mua miếng dày, thái hạt lựu, thắng riu riu cho đến khi tóp mỡ héo lại, màu vàng nhạt ngả sang nâu. Tôi vớt tóp mỡ, để riêng ra cho khô và giòn, dùng để kho cá bống. Vì cất nhiều công, nên tôi rất quý tóp mỡ.
    Hai cô khách, nói chuyện với nhau về một người thứ ba. Hai cô này là sinh viên đi du học. Sang đây, túng tiền, các cô đi làm nail, thấy nghề nail dễ kiếm sống, có dư tiền gửi về cho gia đình. Có một thời gian rất nhiều sinh viên mới ra trường tìm không được việc làm tốt, lương thấp. Các cô bỏ học đi làm nghề nail. Thỉnh thoảng các cô đến quán của tôi, sau giờ làm việc. Các cô biết nấu ăn, và thường ăn kiêng để đừng lên cân, do đó tự nấu ăn thay vì đi ăn hàng quán. Các cô đến quán của tôi chỉ để có dịp nói chuyện với nhau sau giờ làm việc. Các cô không ăn gì nhiều. Thường thường, mỗi cô một cái bánh giò, thỉnh thoảng một chai bia. Hay một chén cơm với đĩa cải chua, đôi khi, có cô xin thêm chút nước dưa chua, làm canh. Hoặc yêu cầu tôi nấu mì gói với chút rau cải và vài con tôm. Các cô bảo rằng chỉ muốn ăn cái gì đó có nước, ấm, và ngán các món ăn cầu kỳ. Quán của tôi sống được nhờ những người khách như vậy.
    “Nhỏ Hát. Nó về Việt Nam lấy chồng. Hai người quen nhau từ thuở thanh mai trúc mã.”
    “Năm nay Hát tuổi cũng đã ba mươi sáu. Gần bốn mươi rồi còn gì.”
    “Yêu nhau, chờ nhau, ít ra cũng hơn hai mươi năm.”
    “Tình yêu kiểu ấy bây giờ tưởng như chỉ còn trong cổ tích!”
 
Ông Yên bước vào dẫn theo một người bạn. Ông là biên tập viên của một tờ báo văn học có tiếng ở thành phố này. Ông thường đến quán tôi vào những tối mất ngủ. Ông Yên tính điềm đạm. Có lần ông đăng bài của một nhà văn trẻ đang vất vả với nghề viết và sau đó giúp cậu sinh viên ra mắt một tập truyện ngắn. Ông giới thiệu người bạn.
    “Đây là Bình. Ông là một blogger nổi tiếng chuyên viết phê bình các tiệm ăn.”
    Trước khi gọi món ăn, ông Bình rút từ trong túi ra đôi đũa bằng ngà, phía trên cẩn bạc, gói trong miếng vải nhung, rất trang trọng. Ông Yên gọi tôm lăn bột chiên và bia, cho cả hai người. Trái ngược với sự điềm đạm của ông Yên, ông Bình nói lớn tiếng, cười ha hả, có vẻ như muốn mọi người trong quán chú ý đến ông. Một trong hai cô khách cũng nhận ra ông Bình là blogger nổi tiếng về phê bình món ăn.
    “Tiệm ấy tuy là có tiếng nhưng pizza ở đó tôi nuốt không trôi. Sốt cà họ bỏ cả tấn muối. Bột pizza vừa nhão vừa dầy. Ngay cả ly wine họ dọn kèm không tính tiền cũng không giữ được tôi ngồi lại lâu hơn.”
    Tôi không ưa các nhà phê bình. Nhiều người hay chê bai nhưng chưa chắc họ có thể tự làm ra một món ăn vừa khẩu vị người khác. Nấu ăn cũng giống như viết văn vậy.
    Ông Yên nói điềm tĩnh. “Ông sẽ thấy món ăn ở đây rất vừa miệng.”
    Vừa lúc ấy ông Sinh bước vào. Mũ lưỡi trai, người dong dỏng, ông Sinh mang cây đàn guitar trước ngực. Như thường lệ ông Sinh vừa đàn vừa hát tặng tôi và khách trong quán một bản nhạc. Ông không nhận tiền của khách hàng. Ông nhìn tôi mỉm cười, nói:
    “Như thường lệ, xin chị.”
    Tôi đặt trước mặt ông một chén cơm rắc tóp mỡ. Ông rưới chút nước mắm vào chén cơm.
    Ông Sinh không phải là người đàn hát chuyên nghiệp. Đàn và hát chỉ là thú giải trí của ông. Khi có lời mời ông trình diễn trong các quán rượu vào những giờ quán ít khách, sắp đóng cửa. Ở quán của tôi ông chỉ hát tiếng Việt và chỉ mỗi một bài. Giọng Ca Dĩ Vãng.
    “Ngày xưa, mỗi lần em buông tiếng hát. Thì anh, tay phím nắn nót cung đàn. Từng nhịp nhặt khoan anh ru hồn theo tiếng tơ…”
    Mỗi khi hát, ông Sinh có vẻ mơ màng, như trở về một nơi nào đó trong quá khứ. Một đôi lần, khi ông hát lời ca ngày đó đã xa rồi, mà ai còn chuốc mãi cung đàn vọng về tim tôi thấy ông ngước mặt nhìn lên trần, khóe mắt long lanh.
    Ăn xong, ông Sinh cúi đầu chào mọi người và ra về. Ông Bình nói.
    “Tôi không ngờ quán của bà có món này. Xin bà cho tôi cơm rắc tóp mỡ.” Ông Yên cũng nói. “Tôi nữa.”
    “Món này các ông có thể tự nấu ở nhà mà.” Tôi nói.
    Ông Bình nói như phân bua.
    “Vợ tôi lớn lên ở bên này. Cô ấy chỉ dùng bơ và ít khi dùng nước mắm vì sợ bốc mùi bay khắp nhà. Đôi khi thèm, tôi cho bơ vào cơm nóng và dùng nước tương thay nước mắm.”
    Ông Yên góp lời.
    “Nếu đi ăn ở quán người ta gọi cơm tấm bì sườn chả, chẳng ai đi gọi cơm rắc tóp mỡ rưới nước mắm.”
    Trước khi ra về, ông Bình hỏi thăm về ông Sinh.
    “Ông Sinh chỉ thỉnh thoảng mới đến đây, và nếu đến ông thường đến vào tối thứ Sáu. Ông ấy chỉ đàn và hát vì sở thích. Tôi mời ông ấy đến hát ở đây vì ông ấy hát tiếng Việt.”
    Sau đó, ông Bình đến quán tôi hằng tuần vào tối thứ Sáu. Lần nào ông cũng gọi cơm rắc tóp mỡ rưới nước mắm khiến tôi thầm nghĩ, ăn như ông liệu ông có thật sự biết cách phê bình thức ăn hay không. Ông Sinh bỗng nhiên không đến nữa. Khách đến quán ăn hỏi ông Bình sao không viết bài phê bình về quán của tôi, ông ấy cười bảo rằng: “Tôi biết viết gì về cơm rắc tóp mỡ rưới nước mắm? Và tôi cũng không muốn đến quán mà không tìm được chỗ ngồi.”
 
Mãi đến mấy tháng sau, ông Sinh đến nhưng lần này không mang theo đàn. Bàn tay trái của ông có đeo cái găng tay màu đen. Ông bị tai nạn nghề nghiệp, vài ngón tay bị giập xương, phải bó bột. Ngón tay tuy lành nhưng không còn cử động nhanh nhẹn như xưa cho nên không không thể đàn được nữa. Khi ông từ giã ra về thì ông Bình ngăn lại.
    “Mấy tháng nay tôi cố ý đến đây để nghe ông hát nhưng mãi đến hôm nay mới gặp. Tôi có mang theo cây đàn. Xin ông cho phép tôi đàn theo giọng hát của ông.”
    Ông Sinh nhìn tôi có vẻ như hỏi ý kiến. Tôi gật đầu.
    “Xin anh tự nhiên. Khách ở đây ai cũng thích giọng hát và tiếng đàn của anh.”
    Ông Sinh nhìn ông Bình vẻ ngờ ngợ, nhưng khi ông Sinh hát đến chỗ “Cung lỡ dây chùng, mấy ai đàn đừng sai.” thì ông Sinh ngừng lại như chợt nhận ra người quen.
    “Phải Bình không?”
    “Dạ, Bình đây! Em nhận ra thầy từ khi lần đầu tiên em gặp thầy ở đây. Bữa đó thầy hát đến chỗ cung lỡ dây chùng, mấy ai đàn đừng sai, cái cách thầy nghiêng đầu, nhướng mắt giống hệt như hổi mấy chục năm về trước thầy đến nhà em dạy đàn. Em cũng nhận ra thầy từ chén cơm rắc tóp mỡ rưới nước mắm. Sau đó em đến đây hằng tuần hy vọng gặp lại thầy mà mãi đến hôm nay mới gặp.” 
    Hai người kéo nhau đến một góc khác châu đầu trò chuyện với nhau.
    “Từ khi ra nước ngoài, tôi làm nghề thợ tiện để kiếm sống, nhưng vẫn đàn hát cho vui. Năm 2000 tôi có về Việt Nam xóm cũ, nhưng gia đình em đã dọn đi. Hỏi trong xóm không ai biết gia đình em dọn đi đâu.” 
    “Em và gia đình đi sau thầy vài tháng. Chỉ riêng chị em còn ở lại Việt Nam. Chị bán căn nhà cũ dọn về quê ở vậy không lấy chồng. Chị thích hát. Ngày xưa chị hay một mình tập đàn và hát bài Giọng Ca Dĩ Vãng. Cứ mỗi lần nghe chị hát đến câu “Lời ca ngày đó đã xa rồi. Mà ai còn chuốt mãi cung đàn vọng về tim” là em thấy chị ấy chảy nước mắt. Gia đình em làm giấy tờ rước chị sang đây ở nhưng chị sang chơi một thời gian rồi trở lại quê nhà. Chị bảo rằng chị thích sống ở Việt Nam hơn. Bây giờ chị vẫn sống độc thân. Chị mở tiệm karaoke để tạo cơ hội cho những người thích hát được hát.”
    “Tôi nhớ mỗi lần sau buổi dạy em học đàn, cô ấy thường mang cơm ra đãi. Cơm chỉ có tóp mỡ rưới chút nước mắm mà sao ngon lạ lùng.” Ông Sinh nói.
    Món ăn ngon nhất là món ăn trong trí nhớ. Tôi thầm nghĩ.
    Tôi nhìn ông Sinh. “Anh đã hát một bài hát chất chứa kỷ niệm về cô ấy mấy chục năm nay. Có lẽ đã đến lúc về quê thăm người cũ.”
    Một thời gian sau, ông Sinh đến. Cùng đi với ông là người chị của ông Bình. Sau cuộc đổi đời, người đánh đàn năm xưa không còn cơ hội trở thành nhà nghệ sĩ, nhưng may mắn thay cô gái năm xưa không làm dâu người ta. Ông Bình cho biết sẽ về Việt Nam giúp vợ chăm sóc quán cà phê có karaoke. Tôi nhớ đến lời của hai cô khách hôm nào. Một tình yêu tưởng như chỉ có trong cổ tích.
 

– Nhị Ngã

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Cái xóm trọ này ngất ngư trong cơn nắng hạ bao nhiêu năm nay, cái nắng cái nóng có khó khổ mấy cũng còn chịu được. Ai cũng bám trụ để mưu sinh, lo cho con cái và gia đình, nhưng cái nóng hầm hè chống dịch thì tàn nhẫn hơn, nó làm cho người ta cạn kiệt cả vật chất lẫn tinh thần. Ngồi nhà cả tháng, ăn uống dù có tém gọn đến độ không thể nào gọn hơn nữa nhưng vẫn không biết mai này lấy gì ăn, ấy là chưa nói tiền nhà, tiền điện, nước, học hành và trăm thứ hằm bà lằng khác.
Con mèo lại tha về một con gián. Vừa nhác trông thấy, bà cụ nhanh tay túm lấy nó. Con mèo ngao lên một tiếng, làm rơi con gián đang ngo ngoe những cái chân ngắn ngủn xuống nền đất gồ ghề. Bà cụ nhanh tay chộp lấy con gián. Con mèo tròn hai con mắt nhìn. Chuyện xảy ra hoài như thế mà lần nào nó cũng tròn mắt nhìn, như thể chuyện đáng ngạc nhiên ấy mới xảy ra lần đầu. Bà cụ khẽ nắm con gián trong lòng bàn tay. Những ngón xương xẩu co lại thành cái lồng hẹp. Bà bước vội ra góc căn chòi lụp sụp. Mở hé nắp vung cái nồi đất đặt cạnh ba hòn gạch của cái bếp lò trơ trụi mớ tro xám, cẩn thận thả con gián vào nồi và nhanh tay đóng vội nắp vung. Cái rãnh nước bên lề con hẻm khô queo đã nửa tháng nay, từ lúc những quán ăn ngoài phố phải đóng cửa ngừa dịch, nên cánh con gián cũng khô, bà cụ yên tâm, không sợ lây nhiễm cái bệnh quỷ quái.
Y nhướng mắt nhìn xuyên màn đêm, thân thể bất động, cổ khô khát, tiếng tích tắc của đổng hồ quả lắc vẫn đều đều như gõ vào cái chuông tâm thức của y. Chợt có tiếng cù rúc của con cú kêu ngoài vườn. Y bất chợt lạnh sống lưng, người ta vẫn bảo rằng, khi cú kêu là có người sắp chết. Y vốn không tin, cho đó là quan niệm mê tín của dân gian, nhưng trong cái khoảnh khắc vừa trải qua cơn ác mộng.
Dì phước ra về. Cuốn Kinh Thánh nằm lại trên mặt chiếc bàn gỗ cạnh đầu giường. Cuốn sách bìa đen, cạnh giấy mạ vàng có sợi chỉ đỏ để đánh dấu đoạn đang đọc. Sợi chỉ đỏ nằm ở trang nào hắn cũng không buồn để ý tới. Dì phước dặn thì cũng cố ngoan ngoãn gật đầu cho bà vui chứ thời buổi này làm gì có ai làm phép lạ mà mơ tưởng. Ngày nào dì phước cũng lại, quanh quẩn bên những giường bệnh, giúp đỡ lặt vặt đám người đã mang bản án tử hình. Nhưng hôm nay dì phước không đến. Mà trời thì cứ mưa rả rích. Mẫu đối thoại hôm qua cứ chạy đi chạy lại trong đầu hắn như đoạn băng nhựa cũ kỹ. Ma sơ đừng đọc Thánh Kinh nữa được không? Được chứ. Thôi thì dì để cuốn Kinh Thánh đây, lúc nào buồn con mở thử một trang đọc xem sao nhé. Một đoạn cũng được nữa. Nghe Tâm. Hắn thở dài âm thầm, rồi thở dài ra tiếng cũng chẳng ai đoái hoài. Trời ơi, mưa gì mà mưa hoài. Chán bỏ mẹ! Chả lẽ mở thử cuốn sách bìa đen ấy ra, đọc một đoạn cho đỡ buồn. Hắn nhoài người ra trước, lật những trang sách, rồi mở hẳn cuốn Thánh Ki
Tháng bảy, 1995. Tàu vào quân cảng Sembawang, Singapore để dự một sự kiện lớn. Có đại sứ Hoa Kỳ và nhân viên tòa đại sứ đến dự, nhờ vậy mà tôi gặp được thằng Hùng, đại úy Biên Phòng (US Coast Guard), được biệt phái qua Singapore làm việc trong tòa đại sứ. Biên phòng Hoa Kỳ mà làm việc ở Singapore? Tôi có thắc mắc đó nhưng bận công việc nên không rảnh để hỏi. Không nói chuyện được nhiều nên tôi và Hùng hẹn nhau đi ăn tối - hy vọng có thời giờ nói chuyện thêm.
Sáu giờ sáng. Vừa mới thức dậy, My xem liền tin nhắn của gia đình trong cell phone. Mấy chị em vẫn thường dùng cách “text” để trò chuyện với nhau. Bên này là sáng sớm, bên Việt Nam mọi người đã ăn xong cơm tối. Em gái út nhắn: “Hôm nay chùa cho mấy ổ bánh mì, để trước nhà, mình ra lấy.” My trả lời: “Vậy sao? Tốt quá! Bữa trước em nói thèm bánh mì nhưng không đi mua được. Nay thì ước gì được nấy rồi nhé!”
Mười bảy tuổi đã làm mẹ. Cô gái ấy rụt rè như đứa trẻ. Cô đứng nhìn đứa bé sơ sinh như nhìn một vật lạ. Đứa bé có nước da vàng sậm. Người ta đặt nó trong lồng kính. Cô y tá bảo đó là cái incubator. Cái lồng ấp. Ấp đứa bé như người ta ấp trứng. Nhưng cái lồng ấp trong bệnh viện hôm nay không ấp trứng mà ấp đứa bé mới chào đời. Bác sĩ bảo cơ thể hài nhi tự nó chưa đủ khả năng biến dưỡng chất mật nên bilirubin tràn lan trong máu và đọng lại dưới da, thành ra da đứa bé màu vàng sậm. Bệnh viện đặt con của cô trong lồng ấp vài hôm dưới ánh đèn màu xanh da trời để tia sáng giúp làm tan bớt chất sắc tố mật đọng dưới da. Người mẹ đứng vẩn vơ bên cạnh cái lồng ấp. Đứa bé có miếng vải che hai con mắt để tia sáng khỏi làm hư nhãn cầu. Mười bảy tuổi. Người mẹ vừa mới qua cái tuổi dậy thì; cái tuổi (lẽ ra) bận rộn với đèn sách và (dĩ nhiên) tíu tít những hẹn hò.
Tháng bảy đối với gia đình tôi có nhiều chuyện không thể nào quên: vui buồn, đau khổ, tuyệt vọng rồi thành công…. Xin tri ân tất cả những gì đã trải qua, những ơn phúc được ban bố, những kết quả trong hiện tại. Xin tri ân cơ hội làm lại cuộc đời tại quê hương thứ hai này. Và tận trong lòng tôi, mãi mãi câu chuyện mảnh giấy nhỏ Ba tôi thả từ xe bịt bùng báo tin: Ba đã bị đưa đi trại 1 Tiên Lãnh và cậu bé Bồ Tát nhặt được đem giao tận tay anh Hai tôi luôn là câu chuyện nhiệm màu không giải thích được.
Trong tiếng hò reo của các ủng hộ viên Ý và hạnh phúc vỡ òa của đội Ý, từ một góc khán đài danh dự của sân vận động Wembley ở Luân Đôn, "hoàng tử bé" George buồn muốn khóc. Bên cạnh vua tương lai của nước Anh là cha mẹ của em -Hoàng tử William và Công nương Catherine- cũng không giấu nỗi thất vọng khi đội tuyển Anh để vuột mất cúp vô địch Châu Âu nằm trong tầm tay với.
Đám tang vỏn vẹn chỉ có hơn chục người đến viếng, những người tới đây đều chép miệng xót thương cho hai chị em còn nhỏ mà đã mồ côi cả bố lẫn mẹ. Nhìn đứa em nhỏ dại ngồi nghịch những gói đường, hộp sữa người tới viếng mang cho mà Thương không cầm được nước mắt.
Thế là một ngày đẹp trời y bỗng nảy ra ý nghĩ: "Sao mình không thử làm văn sĩ?”, nói là làm ngay. Y vội lấy giấy bút và ngồi vào bàn hẳn hoi. Y lại nghĩ: "Phàm làm việc gì cũng phải có lễ, khai trương bá cáo cho thiên hạ biết, huống chi đây là việc quan trọng của đời người và còn ảnh hưởng đến đời sau”, nghĩ thế bèn đứng lên chỉnh sửa y phục thẳng thớm trang nghiêm, chải tóc, rửa mặt cho trông dễ coi một tí,
Cái thằng trông như một xác chết. Hay nó chính là xác chết vừa đội mồ sống dậy. Nhìn nó không khác gì một con zombie thường thấy trên ti vi. Cái mặt đờ đẫn, chân tay lỏng khỏng, áo quần rộng thùng thình. Vậy mà nó lại quàng được vai một đứa con gái. Một đứa con gái thấp hơn nó một nửa cái đầu. Rõ ràng là một đứa con gái. Một đứa con gái Á Châu. Tóc ngắn tua tủa trộn ba màu đen, đỏ, vàng. Mắt to kẻ viền đen. Cặp vai trần trắng muốt, hai vòm ngực đội cao nếp áo thun đen. Hai đứa nhùng nhằng bước vào tiệm. Vào hẳn trong tiệm rồi, chẳng thèm chào hỏi ai, thằng thanh niên ôm con nhỏ, cúi xuống, dán môi nó lên môi con nhỏ, mút và kéo môi dưới đứa con gái dài ra, để tuột ra cái âm thanh chùn chụt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.