Hôm nay,  

Ông Anh

11/05/202307:49:00(Xem: 3522)
Tạp ghi

hoangquan
Nhà văn Song Thao & Nhà văn Hoàng Quân, Montréal, tháng Mười 2022.


Khoảng đầu thế kỷ 21, tôi quen ông Song Thao. Nói quen cho oai, chứ đấy chỉ là tình một chiều. Thuở ấy, mỗi khi có tờ nguyệt san Thế Kỷ 21 trên tay, tôi nhanh nhẹn dò mục lục, tìm bài Phiếm của ông Song Thao, đọc ngấu nghiến. Một ngày đẹp trời (ít nhất là đối với tôi), ông “thấy” tôi trên Diễn Đàn Thế Kỷ, ông hỏi ông chủ bút Phạm Phú Minh: “Hoàng Quân là ai?” Thế là tôi bắc được nhịp cầu tri âm với ông “trùm” Phiếm. Tự đó đến nay, tính ra đã gần chục rưỡi năm. Ban đầu, biết ông là người người sang, tên tuổi ngất trời, tôi không dám bắt quàng làm họ. Tôi quen ông qua anh Phạm Phú Minh. Biết ông trang lứa với anh Minh, nên tôi xin phép gọi ông bằng anh (cho công bình). Dần dà, thư đi, tin lại, tôi nghĩ đến ông như ông anh quý mến. Ông có rất nhiều bạn. Bạn “ảo” trên Facebook quây quần quanh ông lên đến gần bốn ngàn người. Số bạn ông trà đàm, tửu đàm bên bàn tròn văn chương dễ có đến vài trăm. Thế mà, giữa lúc say sưa chuyện trò với những bạn bè đồng thanh, đồng khí của ông trên vuông chiếu chữ nghĩa, ông chợt chú ý đến con bé Hoàng Quân lấp ló ngoài cổng hóng chuyện. Ông ân cần mở cửa cho con bé bước vào sân chơi.
     Tôi có cơ hội nhìn ông, nghe ông trong những cuộc phỏng vấn trên truyền hình hải ngoại. Còn nhân dáng của tôi đối với ông, chỉ là những dòng chữ đều đặn của font calibri hoặc arial trong điện thư và những bài viết tôi gửi đăng trên báo mạng. Thế mà, đã bao lần tôi được ông nhắc nhở, dìu dắt. Ông nghe tôi vất vả lúc làm cuốn sách đầu đời, ông mách nhỏ: “Hãy đến nhà xuất bản Nhân Ảnh.” Khi các ông Khánh Trường, Luân Hoán, Nguyễn Vy Khanh lên chương trình thực hiện bộ sách “44 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (1975-2019)”, ông “tiến cử” tôi vào danh sách. Năm 2018, tôi ngạc nhiên và cảm động vô cùng, được ông cho một chỗ đứng trong mục “Viết Cho Bè Bạn”. Với bài điểm sách: “Đọc ‘Đứng Ngẩn Trông Vời’ của Hoàng Quân”, ông đã “nắm tay” tôi chu du khắp Gia Nã Đại, Mỹ và Úc, không chỉ trên các trang mạng văn học mà cả báo giấy. Chị Tiểu Thu (đồng hương Montréal của ông) xuýt xoa: “Em trúng số độc đắc đó nhe.” Bạn Phạm Công Luận bên Việt Nam nhận xét: “Anh Song Thao có vẻ quý trọng người viết qua trang văn.” Tôi nhớ có lần ông bảo, ông tính rủ tôi viết chung phiếm. Nghe ông nói vậy, tôi vui khấp khởi, mở cờ trong bụng. Nhưng ngẫm nghĩ, thuở tôi chưa biết đánh vần, ông đã làm báo, đã bắt đầu phiếm trong mục “Những điều trông thấy” trên những tờ tạp chí hàng đầu ngày ấy. Giờ đây, hơn nửa thế kỷ trôi qua, ông tung hoành, vẫy vùng trong cõi phiếm của ông. Nhìn ông, xét phận mình, tôi thấy hình ảnh đôi đũa mốc cời cố chòi mâm son lịch lãm. Thế mà, có lẽ do nghiện phiếm của ông, tôi rón rén viết thử bài phiếm. Tôi ấp úng, hỏi ông: “Giống phiếm chưa, cần thêm mắm muối gì nữa không?” Thì ông cười, khích lệ tinh thần (tôi đoán vậy): “Viết như vậy mà còn hỏi đã... phiếm chưa. Cứ... phiếm như vậy cho thiên hạ nhờ! Mắm bây giờ cũng leo thang, khỏi cần thêm thắt chi cho đỡ túi tiền.” Một đôi lần, tôi lề mề, đến hạn góp bài cho tạp chí Ngôn Ngữ. Tôi chạy hớt hải, sợ lỡ tàu. Đang lí nhí lời xin lỗi, thì nghe tiếng ông nhẹ nhàng: “Yên tâm, trước khi cài then, cũng ráng giữ cửa chờ cô em chứ.”
     Có thể ông xem những chuyện cỏn con này không đáng kể. Nhưng với tôi, tôi rất trân trọng sự ưu ái của ông dành cho tôi.
     Ông viết khỏe, viết hay, viết đẹp. Ngay cả đề tài “xấu xí” như dịch bệnh cũng trở nên dễ coi dưới ngòi viết của ông. Năm 2020, thời gian đầu đại dịch, tôi ngại xem, đọc tin tức, vì biết thêm chi tiết, càng thấy đen tối hơn. Nhưng loạt bài về dịch của ông, cho tôi thấy được ánh sáng cuối đường hầm. Lòng có lo lắng, hoang mang, mà đọc bài của ông tôi vẫn cười được, tinh thần bớt căng thẳng. Chuyện “già khú đế” thường thường rất khó nghe, mà qua giọng ông kể, cũng thành êm tai, dễ chịu. Trong bài viết về bệnh của mắt: cườm khô, cườm nước, khi ông liên tưởng đến mì khô, mì nước tôi đã cười ha ha một đỗi. Khôi hài đến như vậy, với tôi, quả là vô tiền khoáng hậu. Mỗi lần đi nhuộm tóc, tôi tủm tỉm cười một mình, vang vang trong tưởng tượng câu nói dí dỏm mà rất có duyên của ông: “Nhuộm tóc có thể bị dị ứng, nhưng không nhuộm, thì dị òm.”
     Nghe ông phiếm về món ăn, tôi vừa mừng, vừa lo. Mừng, được ăn uống hàm thụ, tha hồ thưởng thức của ngon vật lạ, món nóng, thổi phù phù cho mau nguội, món cay, hít hà, cứ tự nhiên gắp gắp, lùa lùa, không phải băn khoăn cao đường, cao muối, cao mỡ... Nhưng rồi tôi lại lo. Vì, ăn “ảo” xong, đầu óc cứ mơ mơ, màng màng được ăn thật. Mà những món ông kể, đâu phải chạy ra phố, ra chợ là có. Ông trầm trồ món bún chả Hà Nội, ông nhắc chuyện bún nay với ông Obama, rồi ông quay qua chuyện bún xưa của các ông Thạch Lam, Vũ Ngọc Phan, Vũ Bằng. Đọc tới đâu, ghiền tới đó. Ghiền mà không được ăn, khổ tâm lắm. Món “ta” ông nhem thèm đã đành, ông kể món “tây” cho độc giả thưởng thức nữa chứ: Tổ đường (Cabane à sucre), đọc mà thấy ngon nhức cả răng.
     Không biết ông có bao nhiêu nốt ruồi son ở bàn chân, mà năm châu bốn bể, dường như chỗ nào ông cũng “lang bạt”. Đến đâu, mắt ông ngó từng ngóc ngách, tai ông nghe từng tiếng động. Bởi thế, du lịch hàm thụ theo “dấu chân” của ông, thích thú vô cùng. Có những chốn tôi đã đi qua, nay nghe ông kể lại, tôi há hốc cả mồm: “Ủa! Chuyện này ngộ ghê. Ủa! Chỗ kia lạ thiệt...” Nơi nào chưa biết, nghe ông vẽ vời quá hấp dẫn, tôi ao ước được có ngày đến đấy, để thấy được những kỳ diệu của đất trời, của con người.
     Ông cho biết, truyện ngắn đầu tay của ông, truyện “Tiếng Nước Dội” đăng trên Thời Nay số 37, phát hành khoảng tháng 3 năm 1961. Tôi lẩm nhẩm tính, lúc đó ông vừa ngoài hai mươi. Eo ui, ổng nhẩn nha kể tiếng nước dội mà tôi hồi hộp, run run hỏi thầm: “Rồi sao nữa, rồi sao nữa?” Tôi thót tim mãi cho đến kết cục mới thở phào nhẹ nhõm. “Chàng cảm thấy vừa vui mừng vừa tiếc. Cái tiếc như vừa đánh rớt mất một vật gì. Βόng người con gái νừa đi đâu về vào cửa... Thành ngơ ngẩn nhìn theo.” Ô, kỳ vậy ta! Văn là người, người trẻ măng, nhưng văn đầu đời đã “già” rồi. Tôi viết email chúc mừng đứa con đầu lòng của ông, khen cháu quá  tra trắng. Ông hóm hỉnh trả lời: “Tác giả truyện này già từ khi ở trong bụng mẹ, nên không có tuổi trẻ. Già đáu!”
     Trong thế giới chữ nghĩa của ông, ông là người “đứng tuổi”. Ông bước vào tuổi văn lực sung mãn, rồi đứng luôn ở tuổi đó. Ông không già. Mà ông cũng từng nói: “Già đâu mà già! Tuổi chỉ là những con số.” Ngòi viết của ông vi vút trên mặt giấy, chính xác hơn là tay ông bấm rào rào trên bàn phím với tốc độ kinh hồn. Tự đó đến nay, ông đều đều cho những cháu bé tinh thần ra đời. Mùa Giáng Sinh năm 2004, ông sanh bé Phiếm đầu lòng: Phiếm 1. Thế mà tháng Hai năm nay, năm 2023, thêm một cháu bé khôi ngô chào đời: Phiếm 29. Tôi nhíu mày, nhăn trán cọng trừ nhân chia. Thế ra, ông không những sanh con năm một, mà có nhiều năm ông sanh đôi nữa kia.
     Trong chuyến cưỡi ngựa xem lá mùa thu Canada năm 2022, tôi xé lẻ đoàn du lịch từ Đức, hẹn gặp anh Song Thao ở Montréal. Tôi không xài điện thoại ở Canada, chỉ liên lạc với anh qua viber mỗi khi có mạng. Các du khách Đức có hai giờ đồng hồ để vào thăm trong Nhà thờ Đức Bà. Tôi bồn chồn đi tới, đi lui trước Nhà thờ chờ anh. Ngày thu trời đẹp, người qua kẻ lại nườm nượp. Tôi lo, mình không thấy anh, hoặc anh thấy, mà không nhận ra tôi. Cuối cùng, không bõ công tôi lóng ngóng, tôi được gặp không những anh Song Thao mà cả chị Diệu Hương. Gặp anh chị lần đầu, mà tôi cảm thấy như quen, như thân. Tôi liên tưởng đến câu thơ thi sĩ Luân Hoán vẽ anh chị:
 
Diệu Hương thoang thoảng diệu hương
Bên ông một chữ trăm phương phiếm thần
 
Giọng Huế của chị ngọt ngào. Giọng Bắc của anh du dương. Ôi, tuyệt vời, đào rất Huế, kép thật Bắc. Tôi không kịp thì giờ vào trong nhà thờ để chiêm ngưỡng kiến trúc độc đáo, chạm khắc tinh xảo. Không hề chi. Cuộc gặp gỡ chớp nhoáng với anh chị Song Thao đã làm chuyến đi ngắm thu vàng ở Canada của tôi đáng nhớ hơn. 
     Ông anh Song Thao ơi.
     Có nhiều người gọi anh là vua phiếm, trùm phiếm, phiếm chủ... Em thấy “tước vị” nào cũng đúng cả. Với em, hơn thế nữa, anh là ông anh, tuy xa mà gần, em rất mực quý mến. Những món quà tinh thần anh tặng là những nguồn vui lấp lánh trong tâm hồn em. Em vẫn muốn nói đi, nói lại lời cám ơn. Cám ơn anh thật nhiều. Hy vọng ông anh sẽ không mắng: “Cái cô em này, sao bày vẽ quá. Anh hiểu rồi.” 

 

-- Hoàng Quân

(Tháng Tư, 2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Quay ra cửa, thấy Ba tôi, ông y tá chạy thoát bằng cửa sau, bỏ quên bộ đồ tây của Ba tôi. Dòng kỷ niệm buồn của tôi vừa đến đây, tôi chợt nghe tiếng Ba tôi gọi: “Con!” Quay lại, tôi thấy Ba tôi ngồi xuống chiếc ghế cạnh tôi, vừa chỉ theo ba Bố con đang đi trên đường trước nhà tôi vừa nói: -Cậu đó với hai đứa nhỏ làm Ba nhớ thời gian gia đình mình sống ở Sơn Tịnh và Hà Bằng.
- Anh ấy chung tình lắm chị ạ. Em dám cá bây giờ cho một cô gái thật đẹp sống chung trong nhà thì anh ấy vẫn chỉ biết có em thôi. - Thế em đã thử chưa ? - Cần gì phải thử chị ! Lần này thì Nguyệt nghiêm trang nói: - Không thử sao biết người ta thật chung tình với mình ? Dường như hơi bị đuối lý nhưng Nga vẫn chống chế: - Thử thì cũng được nhưng ngộ nhỡ ? - Ngộ nhỡ tức là người ta đâu thực sự chung tình với mình, có phải vậy không ? - Nhưng làm thế nào để thử ?
Tôi thì thầm với hắn chuyện ấy, thêm chút muối, chút mắm rằng tôi có thể nói giùm để mụ chủ thông cảm chuyện viết lách của hắn. Hắn cám ơn tôi và hào hứng nói thêm rằng một giây phút cảm hứng có thể ghi tên nhà văn vào danh sách vĩnh cửu. Rồi hắn lan man qua chuyện ông Gheorghiu nhà văn nào đó ở nước tôi. Hắn say mê nói về những anh nông dân Johan, những mục sư Kuruga, những nhân vật Traian… (không biết tôi viết tên có đúng không) vớ vẩn trong cuốn “Giờ Thứ Hai Mươi Lăm” nào đó mà tôi chưa bao giờ nghe nói đến chứ đừng bàn đến chuyện đã đọc hay chưa. Nhìn hai con mắt rực rỡ tin yêu của hắn, tôi chỉ thấy tội nghiệp, nhưng hắn không hiểu. Hắn hăng hái bảo mỗi lần tạo ra một nhân vật, hắn phải cố sống trọn vẹn tâm trạng nhân vật ấy. Từ kẻ sát nhân, kẻ anh hùng, người thất nghiệp, gã ăn mày, ăn xin, tên sở khanh, người đứng vất vơ đầu đường xó chợ, kẻ trộm, kẻ cướp, tên hãm hiếp phụ nữ… Tất cả những tâm lý nhân vật ấy hắn đều đã tự đọa đày mình để trải qua, để sống thực, để viết cho “sống”
Câu cá là một thú vui tao nhã và nhàn hạ, nhưng chỉ bắt được ít cá chứ không nhiều. Đánh bắt bằng lưới và tàu thuyền thì được nhiều hơn, nhưng phải sắm sửa vật dụng, tàu bè, chắc chắn tốn kém nhiều tiền. Trong cuộc sống, khi đi làm phải chịu nhiều áp lực công việc, nhiều người chọn câu cá như một thú vui xả căng thẳng ở chỗ làm. Tôi chẳng bao giờ sắm cần câu để tự mình đi câu vì tôi không có số “sát cá”. Tôi đã thử mấy lần theo bạn bè đi câu mà chẳng bao giờ câu được con cá nào. Muốn ăn cá, tôi vào chợ “câu” là chắc ăn. Nhưng có 1 lần trong đời tôi chẳng tốn kém gì mà vẫn bắt được rất nhiều cá, cả 5, 6 bao tải cá, ăn không kịp phải phơi khô. Tôi xin kể cho bạn làm thế nào tôi bắt cá được nhiều, nhưng xin bạn đừng bắt chước theo tôi với kiểu nói quen thuộc trên TV bây giờ: “Do not try this at home”. Những ngày còn trong nước, khoảng thời gian năm 1975, 1976, tại ngã ba cây số 67 trên đường đi ra Bà Rịa, Vũng Tàu, có một vùng kinh tế mới tự túc tên là Bầu Cạn. Thời đó cả nước
Mùa Hè đầu thập niên 60, từ Đà Nẵng, chúng tôi mở cuộc “hành phương Nam” vào thành phố Nha Trang. Dũng có người bà con ở dưới Cầu Đá, đã nhiều lần vào Nha Trang, mô tả vùng trời phương xa thật hấp dẫn, ba đứa còn lại được nghe bạn kể nên rất náo nức, được dịp rủ rê nên chớp ngay cơ hội sau vài ngày nghỉ hè. Bốn đứa mang theo hai chiếc xe đạp để tiện việc di chuyển, đáp chuyến xe đò Phi Long từ mờ sáng, đến Nha Trang vào lúc mặt trời lặn.
Những tàng cây ngả nghiêng trong gió. Lá me xanh rải đầy đường. Cơn đói bò lan ra cả ngoài da. Chỉ còn hai tiếng đồng hồ nữa là tới giờ hẹn. Không còn cách nào khác. Hắn đạp xe vòng quanh con phố. Bụng quặn lên ngàn con sóng. Biển động cấp năm trong bao tử và ruột non ruột già. Nhưng cơn đói hùng hổ như thế cũng chẳng thấm thía gì so với nỗi lo âu đầy nanh vuốt của cái việc phải làm. Hắn quẹo gắt vào con hẻm. Tay lái xe vướng vào quang gánh một người đàn bà bán hàng rong. Cú giật ngược làm hắn lao đao và người đàn bà nhùng nhằng sắp ngã. Chén bát xô vào nhau loảng xoảng hai đầu quang gánh. Người đàn bà trợn ngược con mắt.
Sau ngày 30 tháng tư 1975 tôi bị ở tù như mọi người cựu quân nhân Cộng Hòa. Ở tù ra, đói khát, lang thang, tới giai đoạn mà “cái đèn đường có chưn nó cũng muốn kiếm đường mà đi.” Đi khỏi quê hương đất tổ mồ mả ông cha, còn cái gì khổ cho bằng? Vậy mà phải đi. Nhứt định đi. Nếu được tới bến bờ tự do thì nhờ phúc đức ông bà kiếm sống rồi tím cách đem thân nhân còn lại không thì chết cũng lẹ làng hơn là chết đói chết khát tại quê hương. Tù vượt ngục về còn có cái mình không với cái quần xà lỏn. Tiền bạc có đâu???, vàng cây để vượt biên là chuyện ngoài chân mây. May mắn hết sức là tôi liên lạc được thằng bạn đồng ngũ đã qua Mỹ, má nó mua chiếc ghe bầu tính chuyện vượt biên đang cần người lái tàu mà tôi là cựu hải quân ngành Rada truyền tin. Bà cho tôi giữ ghe một năm để chuẩn bị.
Chủ Nhật mùng 9 vừa qua của tháng 5 này là Ngày Hiền Mẫu (Mother’s Day) tại Hoa Kỳ, để cho tất cả con cái có dịp đặc biệt tỏ lòng thành kính tri ân người Mẹ qua nhiều hình thức khác nhau, đã phải cực nhọc hy sinh mọi gian khổ để nuôi dưỡng con khôn lớn, ăn học thành tài và sống tự lập ngoài xã hội. Nói riêng về Đạo Công Giáo, trong suốt tháng 5 này gọi là tháng Dâng Hoa Đức Mẹ của tất cả các tín đồ người Công Giáo Việt Nam trên hoàn vũ, bầy tỏ lòng kính mến và tôn vương Thánh Nữ Đức Mẹ Đồng Trinh Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Ông già đứng chờ ở chỗ thiên hạ trả xe đẩy hàng, cạnh cửa ra vào tiệm thực phẩm Á Châu. Ông cụ mong ngóng từ tâm của khách hàng. Và con mắt ông cụ sáng lên khi người thanh niên đẩy chiếc xe lại chỗ trả. Anh ta gài sợi dây từ chiếc xe trước vào xe mình để đồng tiền cắc một đồng lọt ra. Ông già chớp vội hai mắt chờ đợi. Người thanh niên cầm đồng xu và ném về phía ông già. Ông già nhanh miệng cảm ơn và đưa tay đón bắt, nhưng hụt, và đồng tiền lăn tròn trên nền xi măng, phía dưới những chiếc xe đẩy cho khách dùng chất đồ mua trong tiệm.
Theo lệ thường thì Elite Nguyen thức giấc lúc bảy giờ sáng vào mỗi cuối tuần, riêng tuần này thì dậy sớm hơn, sau khi vệ sinh cá nhân thì Elite công phu buổi sáng. Mỗi thời công phu của Elite chỉ chừng hơn một tiếng đồng hồ, có khi thì niệm Phật, tụng kinh hoặc ngồi quán hơi thở. Elite đã có lần cảm nhận sự an lạc tuyệt vời, cái an lạc từ nội tâm làm khoan khoái lan tỏa khắp thân và có cảm giác như bay bổng như làn mây. Cũng có đôi khi đang niệm Phật, Elite thấy thân mình phình to ngang trời đất, nhìn xuống thấy sơn hà đại địa nhỏ xíu như cái sa bàn, những giây phút ấy rất ngắn nhưng đủ để cảm thấy lạ thường. Elite cũng tự cảnh tỉnh mình, đó chỉ là cảm giác huyễn hoặc, dù có hỷ lạc nhưng không chấp vào cái cảm giác ấy. Sáng chủ nhật tuần này cũng thế, sau khi công phu thì Elite ra vườn tưới hoa và ngắm hoa, khu vườn nhỏ nhưng đủ các loại hoa cho bốn mùa, nào là: Pansy, tulip, dạ lý hương, dã yên, cẩm tú cầu, lyli...
Ngày còn là sinh viên Đại học U.C. Berkeley, trưa thứ Sáu nắng đẹp anh em trong ban chấp hành Hội Sinh viên Việt Nam thường đem bàn, ghế ra ngồi ngoài Sproul Plaza để quảng bá sinh hoạt, tạo cơ hội cho các bạn ghé thăm nhau, chia sẻ buồn vui hay tán gẫu sau một tuần học hành căng thẳng. Những buổi trưa như thế, tôi đi loanh quanh dưới hàng cây xanh rợp bóng mát, chụp vài pô hình, ghé vào bàn của các hội đoàn sinh viên khác xem có những hoạt động gì.
Đến đây, tôi nghĩ, có vị sẽ nghĩ rằng chiến tranh đã chấm dứt từ lâu rồi, khơi dậy làm chi nữa! Xin thưa, cứu đói Thương Binh V.N.C.H. trong lúc này không phải là khơi dậy những đau thương của cuộc chiến mà chính là quý vị đang xoa dịu nỗi đau/đang hàn gắn phần nào những tan tác/đang chia xẻ phần nào những tệ hại còn sót lại sau cuộc chiến.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.