Hôm nay,  

Trên vùng đất lạ

14/04/202321:29:00(Xem: 2979)
Truyện

sad woman
Mặt đất khô cứng dưới lưng cô. Trong bóng tối, cô không nhìn rõ khuôn mặt của gã. Nhưng cái mùi của gã thì nồng nặc bao trùm lấy cô, một cái mùi tổng hợp của mồ hôi, thuốc lá, gia vị món ăn… khiến cô muốn lộn mửa. Và thân hình to béo của gã đè nặng lên người cô. Cuộc tra tấn thể xác bắt đầu. Cô nhắm mắt lại, nghiến chặt hai hàm răng, thậm chí nín thở. Như thể đang tự đóng mọi giác quan lại. Và cố gắng không suy nghĩ gì hết. Như một cái xác. Cô ước gì mình là một cái xác thật sự, ước gì mình có thể chết đi ngay tức khắc. Nhưng tận sâu thẳm bên trong, cô biết mình không thể chết, không có quyền chết. Một phút, hai phút, năm phút… hay hàng thế kỷ đã trôi qua cho đến khi gã dừng lại, nằm vật qua một bên…
     Cho đến tận bây giờ, dù đã kỳ cọ tắm rửa hàng bao nhiêu lần, cái mùi của gã vẫn bám chặt lấy ký ức cô, cũng như cái cảm giác cơ thể bị vấy bẩn, mãi mãi không bao giờ có thể gột sạch…
 
***
 
     Alo.
    
     Alo. Có chuyện gì vậy? Sao em không trả lời, sao lại khóc? Em làm anh lo quá.
     Không, không có gì. Bao giờ anh qua đây?
     Anh nói rồi, mẹ anh đã khỏe lại, anh có thể yên tâm mà đi, tiền mọi thứ anh cũng đã gom đủ. Sang tuần tới là anh bắt đầu lên đường. Chỉ vài tháng nữa là chúng mình sẽ gặp lại nhau thôi. Hai đứa chịu khó làm ăn, chỉ vài năm là trả hết nợ cho chuyến đi, thêm vài năm nữa là có ít vốn quay trở về Việt Nam lại… Cố gắng lên em.
 
***
 
Người chủ tiệm nails, Hà, phân trần:
     – Em thấy đấy, làm ăn đâu có ai muốn phá sản hay đóng cửa. Nhưng thật sự là giữa mùa dịch này, đối với những người có nhiều vốn thì người ta gồng được, chờ qua dịch mở lại, còn chị thì không nhiều vốn mà lại vừa một cái tiệm Nails, một cái nhà hàng, chịu hết nổi, phải đóng một cái thôi.
     Từng câu từng câu của Hà vang lên lùng bùng trong tai Linh. Hà còn nói nhiều nữa nhưng Linh không nghe gì vì đầu óc cô đã chìm trong những suy nghĩ lo lắng, buồn phiền. Phát hiện ra điều đó, Hà dừng lại, nhìn cô gái ngồi trước mặt một cách ái ngại.
     Trong số tất cả 10 người thợ làm móng của Hà thì chỉ 4 người là có giấy tờ sống hợp pháp hoặc đang theo học đại học ở Anh, còn lại là dân nhập cư lậu, không một mảnh giấy lận lưng. Nhưng trong 6 người đó, hoàn cảnh của Linh là đáng quan tâm nhất, vì cô chỉ mới đến Anh đâu như 8, 9 tháng và đang mang bầu hơn 8 tháng thì bây giờ tiệm lại phải đóng cửa. Và lúc này cô ngồi đó, mặt cúi xuống, tay vân vê tà áo, mặt buồn xo. Mái tóc mỏng lòa xòa ngang vai, vóc dáng nhỏ bé, cao chỉ hơn thước rưỡi, dù đã 24, 25 tuổi nhưng trông Linh như mới 16, 17. Ngay cả cái bụng bầu vượt mặt cũng không làm cho cô có vẻ gì như một người sắp làm mẹ.
     Thấy Linh vẫn ngồi im lặng, Hà mở ngăn tủ phía dưới cái quầy tiếp tân, lấy ra một phong bì mỏng, đặt lên quầy trước mặt Linh vừa nói:
     – Em cầm lấy ít tiền. Những đứa khác thì chị không lo, chúng nó ở đây lâu rồi, chúng nó sẽ tìm được nơi khác nhanh thôi. Riêng em thì hoàn cảnh mới qua nên chị có gọi hỏi một người bạn ở London, tiệm cũng đang tạm đóng cửa trong mùa dịch, nhưng sẽ mở lại. Em ráng cầm cự qua mùa dịch, đến làm cho cô ấy. Địa chỉ, số điện thoại của cô ấy trong này.
     Linh lí nhí:
     – Cảm ơn chị.
     Linh cầm cái bì thư, nhét đại vào trong túi áo khoác. Và đứng dậy, chào rồi đi ra. Vừa bước ra khỏi cửa, lóng ngóng thế nào cái phong bì từ trong túi Linh rơi xuống đất, vài tờ tiền mệnh giá £20, £50 rơi ra. Linh vội vã cúi xuống nhặt cả tiền, cả phong bì cho vào cái túi cầm trên tay, một cái túi vải dây rút có vẽ hình bản đồ Việt Nam. Rồi cô bước đi, chiếc áo rộng thùng thình che cái bụng bầu, vai gầy dáng mỏng liêu xiêu. Nhìn từ phía sau và trong mắt người bản xứ, Linh càng giống một thiếu niên hơn là một phụ nữ đã trưởng thành.
     Nhìn theo Linh từ bên trong khung cửa kính chạy dài suốt mặt tiền cửa tiệm cho tới khi cô đi khuất, Hà thở ra rồi lại mở tủ, lấy tấm bảng nhỏ viết sẵn, đi ra treo bên ngoài cửa. Tấm bảng, viết bằng thứ tiếng Anh không được chuẩn, thông báo đóng cửa tiệm vĩnh viễn vì lý do đại dịch và làm ăn thua lỗ.
     Khi đóng cánh cửa lại từ bên trong và ngồi xuống ghế, Hà đã hoàn toàn quên mất Linh để quay trở lại với những phiền muộn, lo âu của chính mình. Như vậy là cái tiệm Nails mà cô gầy dựng hơn ba năm nay buộc phải đóng cửa vĩnh viễn! Càng nghĩ càng xót không chịu được. Tiên sư cái thằng đại dịch, tiên sư cái thằng COVID. Hà lầm bầm chửi.
 
***
 
Buổi sáng sớm. Một con đường vắng phía sau một dãy nhà kho. Sao mọi vật xam xám, nhờ nhờ như đang phủ một lớp sương mù?Một chiếc xe tải dài, phía sau có container đông lạnh đang đậu bên đường, cửa xe phía sau mở nửa chừng. Một xác người nằm dài trên mặt đất, ngay gần cửa xe, như thể bị rớt từ trong xe xuống. 2 cái xác nữa, một người phụ nữ tóc dài rũ rượi, hai cánh tay thõng xuống, bên cạnh là hai cái chân của một người đàn ông khác thò ra, nhợt nhạt. Người tài xế da trắng đứng gần chiếc xe có vẻ rối trí, hoảng hốt, đang gọi điện thoại. Một thứ tiếng nước ngoài xa lạ. Cái xác nằm ngửa dưới đất là của một thanh niên người Việt chừng 25, 26 tuổi, không mặc áo, chết vì nóng và ngạt, trước ngực còn đầy những vết cào rướm máu. Khuôn mặt người thanh niên với đôi mắt mở to trừng trừng nhìn lên bầu trời xanh xám trên cao. Chiếc điện thoại vẫn còn cầm chặt trong bàn tay co quắp lại.
Có tiếng còi xe cảnh sát, xe cứu thương từ xa đang tiến đến gần…
 
Linh giựt mình tỉnh giấc. Tiếng còi xe thực đến nỗi cô như vẫn còn nghe thấy, ngay cả khi tỉnh giấc. Và đôi mắt trừng trừng nuối tiếc cuộc đời kia rõ đến mức trái tim Linh thắt lại. Dù buồn ngủ hết sức nhưng Linh cố chống cự, vì cô biết nếu rơi vào giấc ngủ trở lại, giấc mơ kia sẽ lại tiếp nối. Vận dụng tất cả sự cố gắng, cuối cùng Linh cũng ngồi dậy được. Và khi đã ngồi dậy, cơn buồn ngủ cũng trôi đi. Linh ngồi, gục đầu vào hai bàn tay, hai vai rũ xuống.
     Bao nhiêu đêm rồi cô mơ thấy những giờ phút cuối cùng của Việt? Khi thì Việt và những người khác hoảng loạn, đập cửa, kêu gào tuyệt vọng trong cái thùng container tối om, bít bùng, nóng bức như cái hòm di động, khi thì Việt vật vã hớp những hớp không khí cuối cùng, mắt trợn ngược lên như con cá mắc cạn. Và đêm nay cô lại mơ thấy cái xác của Việt bị rơi ra ngoài, trên nền đất…
     Linh với tay bật cái đèn ngủ đầu giường. Không biết làm gì, Linh mở điện thoại ra nhìn giờ. Gần 4 giờ sáng.
     Một cách máy móc Linh mở phần tin nhắn, đọc lại tin nhắn cuối cùng của Việt vào cái ngày định mệnh ấy. “Anh xin lỗi. Anh không thở được. Nhiều người đã chết, có lẽ anh cũng vậy. Anh xin lỗi vì không bảo bọc được cho em suốt đời như đã hứa”. Từng giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống gò má Linh. Những tin nhắn Việt gửi từ lúc bắt đầu chuyến đi cho đến phút cuối cùng Linh đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần và lần nào Linh cũng khóc, vậy mà Linh cứ tưởng nước mắt mình cạn khô rồi sau hai ngày nằm vùi khóc không ăn không uống, khi hay tin Việt và những người Việt Nam khác đã chết trong chiếc container trên đường nhập cư lậu vào nước Anh.
     Khi đó cái bầu trong bụng Linh đã 5 tháng. Nhiều lần gọi điện thoại cho Việt, cô muốn nói sự thật cho Việt nghe về cái thai nhưng rồi cô không sao mở miệng được, chỉ khóc. Việt lại tưởng là cô buồn, cô đơn ở xứ người nên ra sức dỗ dành. Cô tự nhủ thôi cứ để khi Việt qua rồi hãy nói, nếu Việt thông cảm thì tốt, nếu Việt không chấp nhận thì cũng đành chịu… Nhưng rồi Việt đã bỏ cô mà đi mãi mãi…
     Trong những ngày khác cô lại đau đớn với ý nghĩ nếu hai đứa cùng đi một chuyến với nhau, nếu mẹ Việt không đổ bệnh bất ngờ, có lẽ Việt vẫn còn sống, và có lẽ chuyện đó đã không xảy ra với Linh, trong cánh rừng xa xôi của nước Pháp, những ngày khắc khoải chờ sang Anh…
     Nếu và nếu… Những chữ “nếu” không bao giờ xảy ra…
     Linh ngồi lặng lẽ trong đêm. Căn buồng nhỏ hẹp mọi khi có đến ba người cùng thuê ở, nhưng hai cô kia đã quay trở về Việt Nam tháng trước vì mùa dịch, nhiều tiệm nails đóng cửa, không có việc làm.
     Có quá nhiều lý do để Linh không quay về Việt Nam. Món nợ quá lớn vay để có tiền cho chuyến đi chưa trả được bao nhiêu. Không chỉ là tiền, cô đã trả giá quá đắt để đến được đây. Và giải thích làm sao với mẹ, với mọi người về cái bụng bầu này?
     Linh cũng không muốn nhìn thấy căn nhà tuềnh toàng xập xệ chỗ thì bằng gạch, chỗ thì gỗ, có chỗ lại vá víu tạm bợ bằng bìa carton, mảnh vườn xác xơ, thân hình bất động khô héo của người cha nằm dán trên giường từ nhiều năm nay sau một tai nạn giao thông, khuôn mặt buồn rầu, hằn nét chịu đựng của người mẹ cả đời lam lũ, những đứa em lau nhau giành nhau từng cục đường đen, từng miếng cá khô…Tất cả đang mong cô gửi tiền về, chứ không phải chờ nhìn thấy cô trở về với hai bàn tay không. Càng không phải với một cái bụng bầu, thêm một gánh nặng cho cái gia đình vốn đã bị cuộc đời đè đến không thở nổi từ lâu.
     Hai người bạn làm nails kia, dù chỉ mới quen nhau từ khi cùng sống, cùng làm nghề ở đây nhưng có đủ lòng trắc ẩn trước bi kịch của Linh, đã nhét vào tay Linh những tờ tiền nhàu nát và lời chúc may mắn trước khi trở về Việt Nam.
     Linh đứng lên đi vào toilet. Cô mở vòi, rửa mặt, vốc từng bụm nước lạnh vã lên mặt. Nước lạnh làm cô tỉnh ngủ hẳn. Đột nhiên Linh cảm thấy đau nhói ở bụng. Cô gập người xuống, nhăn mặt vì đau, định đứng thẳng người lên thì lại một cơn đau khác ập tới, cô oằn người ôm lấy bụng. Một ý nghĩ hoảng hốt: không lẽ, nhưng mình còn ít nhất mười ngày nữa mới đến ngày sinh kia mà. Giá mà mấy cô bạn kia còn ở đây. Những cơn đau nối tiếp, mỗi lúc một dồn dập, dữ dội hơn. Linh không nén được những tiếng rên.
      Giữa hai cơn đau, Linh cố gắng bước ra ngoài, chộp lấy cái điện thoại định gọi cấp cứu. Nhưng rồi mình sẽ nói gì? Tiếng Anh thì chỉ lõm bõm vài chữ. Rồi nếu người ta phát hiện ra sống không giấy tờ, đuổi về VN? Sự nhút nhát và nỗi sợ bi đuổi về còn lớn hơn cả nỗi sợ chết. Đã đến nước này thì một liều ba bảy cũng liều. Ở nhà Linh từng giúp mẹ sinh em út, rồi lại giúp chị dâu sinh con, chẳng có gì phải sợ hãi. Linh cố chịu đựng cơn đau, lấy cái túi đựng đồ chuẩn bị sẵn để đi sinh dưới chân giường rồi trở lại toilet, lót một cái khăn ra sàn và ngồi bệt xuống.
     Linh nửa nằm nửa ngồi trên sàn toilet nhoe nhoét máu, quần vắt trên nắp bồn cầu, hai chân dạng ra, một cơn đau ập tới, cô vớ lấy một cái khăn nhét vào miệng để chặn tiếng thét, cô quằn quại người vì đau.
     Trong cơn đau Linh thì thầm với Việt: “Anh ơi giúp em.”
     Có phải là linh hồn Việt đã nghe lời van xin của cô hay đứa bé biết thân biết phận mà chui ra rất nhanh. Một hình hài nhỏ bé, làn da nhăn nhúm, một màu da sẫm hơn màu da của mẹ nhiều, khắp thân người nhớp nháp chất nước ối và máu, chuồi ra trên sàn như một con cá, đôi mắt nhắm nghiền nhưng cái miệng đã mở ra khóc rất to. Một đứa con trai. Linh tránh nhìn đứa nhỏ như thể việc không nhìn, không suy nghĩ sẽ giúp cô không có bất cứ cảm xúc hay ký ức gì với cái sinh linh bé nhỏ, xa lạ kia. Cô lấy cái kéo cắt dây rốn, dùng sợi chỉ buộc cuống rốn, làm vệ sinh cho cả hai rồi bế đứa nhỏ được bọc đứa trong cái khăn dày, lết ra ngoài. Đặt đứa nhỏ lên giường, Linh cũng nằm vật xuống một bên và thiếp đi.
 
***
 
Sáng sớm Chủ Nhật, vắng lặng. Một ngôi nhà thờ Tin Lành với kiến trúc cổ, đúng kiểu nhà thờ truyền thống của Anh quốc. Những bức tường đá nặng nề đã xỉn màu vì thời gian. Bao quanh nhà thờ là khoảng đất rộng với những bia mộ bằng đá giản dị, trên mỗi cái bia đều khắc hình cây thánh giá. Trước một vài ngôi mộ vẫn còn những bó hoa của người đến viếng.
     Cổng chính của nhà thờ hé mở, trên bậc thềm một chiếc giỏ đan được để đó. Có tiếng ọ ọe. Người trông nom nhà thờ, một người Anh khoảng trên dưới 60 tuổi, tóc bạc hơn nửa, trên tay cầm một chùm chìa khóa to và một tập thánh ca (hymn book) từ trong nhà thờ đi ra. Nghe tiếng khóc và nhìn thấy cái giỏ, người đàn ông sững lại, cúi xuống nhìn và giựt mình khi thấy một đứa trẻ sơ sinh còn đỏ hỏn bọc kín trong cái tã, đang oe oe khóc. Bên trong cái giỏ còn có cả gói quần áo cho trẻ sơ sinh. Người đàn ông đứng thẳng người đưa mắt nhìn quanh. Không có ai. Cái giỏ có lẽ đã được đặt ở đây sau khi ông mở cửa đi vào bên trong nhà thờ để dọn dẹp buổi sáng, vì trước đó khi bước vào ông không hề thấy.
     Đứa bé lại khóc. Người đàn ông lắc lắc cái giỏ như để dỗ dành đứa bé, lại nhìn quanh lần nữa rồi xách cái giỏ vào trong.
 
***
 
Một sân ga nhỏ ở một thành phố phía Bắc nước Anh. Vắng vẻ. Chỉ có một cặp trẻ tuổi đang ôm nhau, một anh chàng da trắng và một cô gái da màu, miệt mài hôn nhau bất chấp chung quanh, một người nghệ sĩ đường phố tuổi trung niên, có vẻ là dân một nước Đông Âu, dáng dấp gầy gò, ăn mặc tồi tàn, trên tay xách một hộp đàn guitar cũ. Và Linh. Linh ngồi trên băng ghế chờ, khuôn mặt nhợt nhạt, đôi mắt sung húp vì khóc nhiều. Bên cạnh cô là chiếc vali nhỏ cũ kỹ và chiếc túi có hình bản đồ Việt Nam.
     Chẳng ai nói chuyện với ai. Cặp tuổi trẻ vẫn tiếp tục hôn nhau, anh chàng còn thò cả tay vào phía trong quần bạn gái từ phía sau, cô gái cười rúc rích như chuột. Có tiếng còi xe lửa rồi một chiếc xe lửa từ xa tiến tới gần. Xe lửa đi London.
     Chiếc xe lửa từ từ dừng lại. Không có ai bước xuống. Cặp trẻ tuổi và người nghệ sĩ đường phố bước lên xe. Linh cũng lặng lẽ đứng dậy, xách vali và túi bước lên theo, không hề ngoảnh đầu lại…
     Xe lửa từ từ lăn bánh…

 

– Song Chi

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hai chữ giang hồ không mấy xa lạ trong đời sống của mỗi người đều thường đề cập trong thơ, văn, điện ảnh… và cũng là câu nói thường tình với cá nhân, nhóm người trong xã hội. Tác phẩm Thủy Hử ban đầu là Giang Hồ Khách Truyện, sau lấy tên là Thủy Hử vì “căn cứ địa” Lương Sơn là vùng đầm, hồ nên Thủy Hử (bến nước). Truyện nầy qua bản dịch của La Thần và Á Nam Trần Tuấn Khải, gồm 3 cuốn, năm 1973, sau đó với Tử Vi Lang nên rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Trong truyện Thủy Hử của của nhà văn Thi Nại Am (1296-1372) ở Trung Hoa vào triều Nguyên-Mông (1295-1368), kể về câu chuyện của Tống Giang triều nhà Tống, nổi dậy kéo theo “giang hồ hảo hán” gồm 108 người đến núi Lương Sơn. Gọi là anh hùng Lương Sơn Bạc.
Ở Sơn Tây, tôi là khách lạ nhưng mang tâm trạng sâu đậm như người trở về nguồn cội. Đầu tiên tôi tìm mua tấm bản đồ tỉnh lỵ nhưng không ai bán, họ chỉ dẫn địa điểm Thành Cổ rồi theo 4 hướng Đông Tây Nam Bắc của hình vuông ấy là sẽ tìm ra mọi nơi. Hướng Nam đối diện với phố Quang Trung còn gọi là Cửa Tiền, Cửa Hậu ở hướng Bắc có phố Lê Lợi và nếu đi thẳng đến cuối đường sẽ gặp sông Hồng, hướng Đông là Cửa Tả nhìn ra chợ Nghệ và cuối cùng hướng Tây hay Cửa Hữu có phố Ngô Quyền.
Buổi sáng cuối tuần, mùa đông chớm về với những cụm mây xám nhạt, lơ lửng trôi trên bầu trời California, không khí se se lạnh, tôi và Hoàng ngồi ngoài hàng hiên quán Coffee Lovers của Thành phố Hoa vàng nhìn trời hưu quạnh. Bên hai ly cà phê sữa nóng và dĩa bánh Patechaud, Hoàng nói chậm dãi, nhỏ nhẹ, kể cho tôi nghe về quê ngoại của Hoàng thời niên thiếu.
Theo thông lệ trước đây, hằng năm vào đầu tháng 9, CVKer 65 Bok Thân có tổ chức buổi tiệc gây quỹ cho địa phận Kontum. Năm nào Bok Thân cũng thành công mỹ mãn, gởi về quê nhà nhiều số tiền lớn lao dùng cho các hoạt động bác ái của địa phận. Sau dịch cúm Tàu phù, kinh tế trì trệ, dân chúng cũng ngại đám đông nên Bok Thân phải uyển chuyển tổ chức 2 năm một lần; lần này là Đêm Tình Thương lần thứ Sáu.
Memphis là thành phố lớn của tiểu bang Tennessee, nổi tiếng là một trong những cái nôi của dòng nhạc Blues & Jazz của nước Mỹ. Cách đây 4 năm, tôi lái xe đến thăm Memphis chỉ để được nghe nhạc Blues “nguyên chất” tại B.B King’s Blues Club, một trong những “việc đáng làm trong đời” đối với những người mê nhạc Jazz. Nghe nhạc Jazz ở Memphis sẽ thấy được dòng nhạc như chảy trong huyết quản của người da đen ở Miền Nam Hoa Kỳ. Vào đầu tháng 10 năm nay, tôi trở lại thành phố Memphis, nhưng đó không phải là đích đến của chuyến đi. Memphis có phi trường chỉ cách Tu Viện Mộc Lan khoảng hơn một tiếng lái xe. UH, một cô bạn đồng tu đã từng cùng học với một vị thầy, cùng sinh hoạt trong một nhóm Phật tử ở Quận Cam California được chấp nhận vào ni đoàn, làm lễ xuống tóc xuất gia tại Mộc Lan. Tôi cùng một nhóm bạn nhận lời mời đến dự sự kiện trọng đại của một đời người này.
Đọc xong email của Cathy, Khôi mỉm cười khoan khoái, bước xuống phòng khách pha cho mình ly cà phê nóng của buổi sáng cuối tuần. Trời đã cuối Thu, những chiếc lá khô cuối cùng lao xao đuổi nhau theo những cơn gió nhẹ trên mặt đường, tạo nên một âm thanh vui tai. Hàng cây khô trụi lá khẳng khiu đang rung rinh trước gió, chuẩn bị cho những ngày đông dài sắp tới. Khung cảnh thật bình yên. Bình yên như tâm hồn Khôi sau những tháng ngày băn khoăn, ray rứt đã qua.
Vào cuối tháng 5 vừa qua, tôi lại có dịp quay trở về lại mái trường xưa, để tham dự buổi lễ ra trường của một cháu gái Cynthia Ngô, được lãnh nhận bằng Tiến Sĩ Luật Khoa, tại Đại Học Oklahoma City University (OCU), mà tôi là người đỡ đầu (God Father) khuyến khích cho cháu này theo học ngành luật khoa, cũng tại ngôi trường trước kia tôi học.
Dù bạn chưa từng đến Huế, nhưng đã từng nghe tiếng địa danh này qua hai câu hò quen thuộc: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương... ..
Đây là chuyện tình yêu xưa, xa xưa lắm rồi, nhưng dư âm vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm đến thế hệ chúng ta hôm nay… hình như con người sống nương tựa rất nhiều vào tình yêu… tình yêu cho con người nhiều ý nghĩa thiêng liêng, nhiều gia vị đậm đà đáng sống. Nếu hỏi tại sao là vậy, thì thưa rằng bên cạnh tình yêu và cuộc mưu sinh, ta còn có những gì? Bầu cử ư, bầu cử đã qua rồi, ngã ngũ rồi, không còn gì để bàn nữa. Nhưng nếu bạn muốn theo dõi hậu bầu cử, đó cũng là ưu điểm, coi thế sự cuộc đời sẽ diễn tiến ra sao những ngày sắp tới. Trước mắt, bên cạnh, xung quanh còn vây phủ đe dọa đầy chiến tranh tàn khốc hủy diệt đe dọa sự sống còn của nhân loại bằng những vũ khí của khoa học hiện đại tân tiến, cộng với lòng ác độc của tham vọng, của chính trị không phương giải quyết.
Một người bạn nói với tôi rằng có những bài thơ hoặc những đoạn văn nằm hoài trong đầu của mình từ hồi còn nhỏ, nên khi được nhắc tới thì tự động tuôn ra. Tôi thấy có lý. Mỗi khi có dịp nói chuyện với ai về lòng biết ơn, tôi cứ như theo quán tính, chia sẻ một bài thơ ngày xưa tôi học ở bậc Tiểu Học. Không hiểu vì sao! Vì mình có tính hoài cổ? Hay vì đầu óc tuổi nhỏ dễ khắc ghi? Hay vì đây là bài học bắt buộc trong sách giáo khoa? Hay chỉ đơn giản là vì bài thơ có lời lẽ giản dị mà sâu sắc?
Nắng đã tắt từ lâu. Trời đen thẫm bên ngoài. Mùa đã về qua những chiếc lá vàng rơi rải rác theo những câu thơ trong những tạp chí văn chương của thành phố. Mùa thu nằm co trên trang giấy. Heo may lẩn quẩn đầu môi những kẻ gạ tình. Không có mùa thu ngoài đời sống ở nơi này. Hơi nóng vẫn râm ran không khí. Bên ngoài vắng gió. Trong này, chiếc quạt trần lờ lững quay. Và cuộc đối thoại nhì nhằng mãi chẳng đi đến đâu.
Đi dạo trong công viên Vigelandsanlegget, trời rét căm căm. Bỗng dưng, tôi nghe tiếng nhạc réo rắt. Một nhạc công phong cầm ngồi giữa băng tuyết, đang chơi bài Sóng Nước Biếc. Thật là tình cờ kỳ diệu. Mới hôm qua, hôm kia, ở Đức, khi chậm chân nghe nhạc công chơi phong cầm ở nhà ga, trí tôi lao xao nhạc điệu bài Sóng Nước Biếc. Bươn bả chạy nhanh cho kịp giờ xe, tôi tiếc, định bụng hôm nào thuận tiện sẽ đến yêu cầu. Hôm nay, ở Oslo, tôi được nghe Waves of the Danube của nhà soạn nhạc người Lỗ-Ma-Ni, Iosif Ivanovici. Lời Việt Sóng Nước Biếc của nhạc sĩ Phạm Đình Chương thật tuyệt vời. Trong cái lạnh cắt da, giữa công viên rộn ràng du khách, tôi mơ màng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.