Hôm nay,  

Tấm lòng của vị danh y tổ ngành thuốc Nam

06/04/202308:31:00(Xem: 2510)
Truyện

Cu-Tue-Tinh

 


Chuyện diễn ra vào thời Xương Phù (Phế Đế) nhà Trần.
      Hôm ấy, giới tăng đồ và Phật tử ở chùa Giao Thủy đã tổ chức một buổi lễ cầu an cho Thiền sư Tuệ Tĩnh và sa di Thiện Ứng lên đường về Thăng Long để sang Tàu. Lệnh vua triệu tập đã đến quá gấp rút. Thiền sư Tuệ Tĩnh không thể nào chọn kịp người kế thừa để lo tiếp kế hoạch phục vụ dân sinh trên lãnh vực y dược đang thực hiện dang dở của ngài. Vì Thiền sư tuổi đã ngoài ngũ tuần, già yếu, nên tăng đồ đã tuyển chọn một vị thị giả để giúp đỡ ngài. Sa di Thiện Ứng mới tuổi mười sáu, thể chất khỏe mạnh, lại thông minh hoạt bát đã tình nguyện làm việc này và đã được chấp thuận.
      Đây là một buổi lễ cầu an đặc biệt hiếm có. Xưa nay dù là vào các buổi lễ lớn, chùa Giao Thủy chưa bao giờ có dịp tiếp đón một lượng dân chúng đến tham dự đông đảo như thế. Rất nhiều người ở phương xa cũng kéo nhau về tham dự. Ngoài số Phật tử còn có cả những bệnh nhân hoặc người thân của họ đã được nhà chùa cứu chữa khỏi những cơn bệnh ngặt nghèo. Nhà chùa phải dựng thêm hai cái rạp lớn nhưng vẫn không đủ chỗ chứa. Rất nhiều người đã phải đứng ngoài trời để cầu nguyện, chúc phúc.
      Trên gương mặt mọi người đều lộ vẻ băn khoăn, lo lắng. Dân chúng đã loan truyền cho nhau biết chuyến đi của Thiền sư khá bất thường. Thiền sư đã lớn tuổi, chuyến đi lại quá xa xôi, thật khó mong ngày trở lại. Theo đòi hỏi của vua Minh, Đại Việt phải cống nạp cho thiên triều một số tu sĩ đạo cao đức trọng, một số thầy thuốc giỏi, một số thợ khéo tay nhiều nghề, một số thanh thiếu niên tốt mã, đặc biệt là hạng mắc chứng “trung tính” tự nhiên v.v... Nhà Trần lúc bấy giờ đã quá suy yếu, muốn yên thân tất nhiên không thể từ chối các yêu sách đó. Thiền sư Tuệ Tĩnh không may đã được triều đình chọn làm một trong số những “cống phẩm sống” ấy.
      Trước sân chùa Giao Thủy, chư tăng đã cho dựng một sân khấu nhỏ, có bắc mấy tấm ván tạo sẵn một lối đi lên. Một vị sư đã đại diện cho chùa đứng ở sân khấu ấy để điều khiển chương trình lễ cầu an. Khi lễ cầu an đã dứt, vị sư ấy lại thay mặt ban tổ chức thưa chuyện với quần chúng:
      – Kính thưa đại chúng, trong nhiểu năm gần đây, một vùng đất rộng lớn thuộc trấn Sơn Nam Hạ, hầu hết dân chúng đều có một cuộc sống vui vẻ, an lành. Bóng ma dịch bệnh quái ác đã hoàn toàn biến mất, những cảnh chết chóc đau khổ đã giảm thiểu, khác hẳn với thời gian trước kia. Nhờ đâu chúng ta có được sự an toàn ấy? Chắc hẳn ai cũng rõ, chính là nhờ bàn tay thần diệu của Thiền sư Tuệ Tĩnh. Ngài là một vị thần y đại tài, rất linh mẫn về việc chẩn mạch, đoán bệnh. Ngài đã dạy chúng ta phép giữ vệ sinh, ngăn ngừa sự lây lan của mầm bệnh. Ngài cũng dạy chúng ta các phương pháp chữa bệnh phổ thông như châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông v.v... Ngài đã cùng các đồ đệ bỏ nhiều công sức để sưu tầm, nghiên cứu dược tính của nhiều loại cây cỏ và chế biến ra nhiều loại thuốc để chữa bệnh rất hiệu quả. Ngài vừa hành nghề, vừa ghi chép những gì đã nghiên cứu được, những thành quả chữa trị, hệ thống hóa lại thành những tập tài liệu quí giá để truyền lại cho đời sau. Tiêu biểu là 2 tác phẩm “Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư” và “Nam Dược Thần Hiệu”. Qua thực tế, ngài đã chứng minh được dùng thuốc Nam cũng hiệu quả không kém gì thuốc Bắc. Ngài đã triệt để chủ trương dùng phương sách “Nam dược trị Nam nhân” và tin tưởng sẽ có ngày trên đất Việt, ngành thuốc Nam sẽ hoàn toàn thay thế ngành thuốc Bắc quá đắt tiền đối với dân nghèo. Ngài đã không ngừng gắng công ra sức phát triển cái công trình cứu dân độ thế ấy mỗi ngày mỗi thêm rộng lớn. Ngài còn vạch ra kế hoạch hoạt động cho tương lai, mỗi ngôi chùa sẽ trở thành một y xá. Hiện nay đã có 24 ngôi chùa có triển vọng kiêm luôn công việc của một y xá để chữa bệnh cho dân. Trong thời gian này, ngài đã ráo riết tuyển lựa, khuyến khích những Phật tử có lòng giúp ngài một tay... Xin lỗi đại chúng, bần tăng quên nói điều này, sư Tuệ Tĩnh cũng là một bậc chân giác ngộ khó có người sánh được. Dù đã mấy lần đỗ đạt vinh hiển như đỗ Thái học sinh (1351), đỗ Hoàng giáp (1374) nhưng ngài nhất định không chịu ra làm quan mà quyết lòng theo đuổi nghề làm thuốc và tu hành để cứu độ chúng sinh như nguyện ước ban đầu của ngài. Nhưng tiếc thay, người muốn nhưng trời chẳng chiều lòng. Ngày mai Thiền sư sẽ phải lên đường về kinh theo lệnh của vua. Một con người đã hi sinh gần hết cuộc đời mình để thực hiện một lý tưởng cao đẹp nhưng việc chưa thành tựu đành phải bỏ dở, theo thiển nghĩ của bần tăng, dù vị đó là tăng hay tục thì nỗi buồn, nỗi tiếc nuối chắc cũng chẳng khác nhau mấy... Lát nữa thôi, Thiền sư sẽ lên đây có vài lời để giã từ đại chúng. Xin đại chúng giữ im lặng để nghe lời vàng ngọc của ngài...
      Vừa lúc đó sa di Thiện Ứng cùng hai sa di khác đã phò Thiền sư ngồi trên một cỗ xe lên sân khấu. Vị tăng đang nói chuyện quay người lại để vái chào Thiền sư trong khi bên dưới đại chúng vỗ tay vang rền, điểm thêm những tiếng kêu nức nở, nghẹn ngào “Thầy ơi, thầy đừng đi, thầy ở lại với chúng con”. “Thầy đi rồi ai chữa bệnh cho chúng con?”. Vị tăng lại phải vẫy tay ra hiệu một hồi không khí im lặng mới được vãn hồi. Thiền sư ngồi trên xe, dáng vẻ mệt mỏi nhưng vẫn nở một nụ cười từ ái như thường lệ, chắp tay vái chào đại chúng. Ngài bắt đầu lên tiếng:
      – A Di Đà Phật! Kính thưa đại chúng, vừa rồi thầy đã bất ngờ nhận được chiếu chỉ của hoàng đế truyền phải cấp tốc tựu về Thăng Long để chờ ngày đi Yên Kinh. Ngày mai thầy sẽ phải lên đường. Đây là việc quốc gia đại sự. Lệnh vua đã xuống tất nhiên không ai có thể nghĩ bàn gì nữa. Thầy chỉ còn biết ước mong, sau khi hoàn tất sứ mạng, nếu chúng ta còn nhân duyên với nhau, thầy sẽ được trở lại đây để cùng đại chúng đi tiếp con đường “Nam dược trị Nam nhân” đang dang dở. Đối với con nhà Phật, cảnh tụ tán, còn mất coi như chuyện thường. Nhưng dù sao thầy vẫn còn nợ với đại chúng một ước nguyện chưa thành. Kiếp này chưa trả được, đành hẹn lại kiếp sau vậy! Giờ đây thầy chỉ còn biết thành thật cám ơn đại chúng đã tỏ lòng yêu quí, quyến luyến thầy, đã tề tựu về đây để cầu an và chúc phúc cho thầy lên đường. Thể xác thầy tuy già yếu nhưng xin đại chúng yên tâm. Đã có sa di Thiện Ứng, một Phật tử trẻ đầy sức sống sẽ đỡ đần mọi việc khó khăn giúp thầy. Đại chúng đã cầu nguyện cho thầy cũng xin cầu nguyện luôn cho sa di Thiện Ứng. Thầy cũng chỉ còn biết cầu nguyện chư Phật gia hộ cho đại chúng thêm sức mạnh tinh thần để tiếp tục xây dựng một cuộc sống mới an lành và hạnh phúc... Nam Mô A Di Đà Phật!
      Nói xong, Thiền sư chắp tay vái chào đại chúng rồi ra hiệu cho mấy sa di quay xe trở vào. Lời lẽ Thiền sư ngắn gọn, bình dị nhưng nếu ai để ý sẽ nhận thấy ngài có vẻ không được tự nhiên và có vẻ mệt mỏi. Thật vậy, lâu nay ngài vẫn luôn đi bộ chứ có bao giờ chịu ngồi xe cho đệ tử đẩy? Giữa lúc đó trong đại chúng lại có nhiều âm thanh nghẹn ngào nấc lên: “Thầy ơi, thầy ơi, thầy ơi...”. Vị tăng đang đứng trên sân khấu vội vàng vẫy tay trấn an mọi người:
      – Xin đại chúng giữ trật tự, không có chuyện gì đâu. Chuyến ra đi này của Thiền sư là một sứ mệnh đối với đất nước và cũng là một vinh dự lớn lao cho ngài. Chẳng qua Thiền sư hơi bị xúc động vì cái lệnh vua xuống quá bất ngờ trong khi công việc của ngài lại quá bề bộn nên ngài không kịp sắp xếp gì kịp. Hai hôm nay ngài đã làm việc quá độ, quên cả ăn uống, quên cả ngủ nghỉ, tất nhiên ngài không tránh khỏi sự xuống sức. Chư tăng cũng biết vậy mà nào ai nỡ khuyên can vì công việc của ngài phải để ngài tính liệu chứ! Ta cứ tin vào thần lực và ý chí của ngài, mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi. Cái cảnh đại chúng đã đến cầu an, chúc phúc và tiễn đưa ngài đông đảo như thế này chắc hẳn đã làm ngài ấm lòng lắm rồi. Cuộc cầu nguyện tới đây coi như tạm đủ. Bây giờ ai muốn ở lại cứ tự nhiên, ai có công việc nhà cứ về giải quyết cho xong... Nhà chùa cũng đang sắp xếp, chuẩn bị hành trang để Thiền sư lên đường... Nam Mô A Di Đà Phật!
 
***

Sa di Thiện Ứng bấy giờ mới mười sáu tuổi đời và chỉ mới vào chùa chưa tới năm năm. Chính Thiền sư Tuệ Tĩnh đã đặt pháp danh và xuống tóc cho chú. Vốn thông minh, lanh lẹ, lại chịu khó học hỏi nên chú rất được Thiền sư quí mến. Đi đâu ngài cũng đem chú theo như hình với bóng. Đáp lại, Thiện Ứng cũng một mực sùng kính Thiền sư. Việc gì Thiền sư đã dạy bảo việc chú đều cố gắng thực hiện trôi tròn. Nhờ tinh thần khắn khít thân mật giữa hai thầy trò như thế nên khi Thiện Ứng tình nguyện giữ vai trò trợ lý của Thiền sư trong sứ mạng làm “cống phẩm sống” cho thiên triều, chú đã được Thiền sư và chư tăng đồng ý ngay.
      Khi đã về tới Thăng Long, hai thầy trò Tuệ Tĩnh đã được sắp xếp tạm nghỉ ở một căn phòng thuộc dãy công quán. Trước khi vào lạy chào vua để xuất cảnh, các thành viên “cống phẩm sống” được vua ban đặc ân đi thăm viếng các đền chùa, các danh lam thắng cảnh hoặc nơi nào muốn biết trong phạm vi kinh thành. Tất cả mọi phí tổn như ăn uống, các phương tiện đi lại đều do nhà nước đài thọ. Sa di Thiện Ứng hỏi Thiền sư:
      – Sư phụ có ý định đi thăm viếng chùa nào hay dạo chơi đâu không?
      – Ta không định đi đâu cả. Ở chốn kinh thành này, ngày xưa khi đi thi, ta đã viếng qua được một số thắng địa. Nay già rồi, ở nhà tụng kinh niệm Phật cũng được. Con còn trẻ, cần thu thập thêm kiến thức. Cho phép con thích đi chơi chỗ nào cứ đi. Đây là lần đầu và cũng có thể là lần cuối trong đời của con được dịp đến kinh đô của tổ quốc, nên đi một vòng cho biết.
      – Bạch thầy, thầy không đi con cũng xin ở nhà với thầy.
      – Hãy nghe thầy, đây là dịp hiếm có, con phải đi cho biết.
      – Bạch thầy, con xin lỗi có thể sẽ làm thầy không vui. Thú thật hiện tại nội tâm con đang bị xao động nên dù đi đâu cũng khó thu thập kiến thức hay thưởng ngoạn cảnh vật được. Chi bằng ở nhà để tụng kinh niệm Phật hay hơn.
      Thiền sư cười cười nhìn Thiện Ứng:
      – Ta hiểu rồi. Nội tâm con đang xao động vì con nhận thấy thái độ của ta trong mấy ngày nay hơi khó hiểu chứ gì? Phải vậy không? Thắc mắc điều gì cho phép con cứ hỏi, đừng ngần ngại.
Thấy nét mặt sư phụ có vẻ cởi mở, Thiện Ứng thưa:
       – Bạch thầy, thầy đã cho phép nói, con không dám dối. Thầy đã từng dạy con bài thơ “Thị Đệ Tử” của sư Vạn Hạnh “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô, Nhiệm vận thịnh suy vô bố úy, Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”. (Người đời như ánh chớp, có rồi lại không, Vạn loại cây cối mùa xuân xanh tươi, sang thu đều khô héo, Cứ để mặc vận đời đưa đẩy dù thịnh dù suy, chớ sợ hãi, Vì sự thịnh suy cũng mong manh như giọt sương trên đầu ngọn cỏ mà thôi). Thầy cũng đã dạy con khi đã quyết chí tu thì phải tập trung tinh thần vào việc tu hành, đừng để tâm bị xao động vì tác động của ngoại cảnh. Ngay cả tấm thân mình cũng cứ tùy vận, dẫu còn hay mất vẫn coi thường, không có gì để phải sợ hãi. Con vẫn sùng tín thầy tột cùng: Một bậc đại khoa không chịu làm quan để hưởng vinh hoa phú quí lại chịu cuộc sống dưa muối kham khổ để nuôi tâm dưỡng đức! Ngoài việc tu hành thầy luôn vất vả trèo đèo lội suối vào chốn rừng rú tìm cây thuốc, thức khuya dậy sớm để nghiên cứu, bào chế thuốc để chữa bệnh cho dân. Khi nghe có người bị bệnh nguy ngập ở đâu, thầy không hề ngại xa xôi, không kể giờ giấc, sẵn sàng tìm đến cứu giúp họ. Đối với con, thầy quả là một vị Bồ Tát sống. Vậy mà không hiểu sao từ khi nhận được lệnh vua phải làm “cống phẩm sống” cho nước Tàu thầy lại có vẻ lúng túng, băn khoăn, mất hết vẻ bình thản thường ngày. Chắc phải có một vấn đề gì quan trọng lắm mới gây ảnh hưởng lớn đến thầy như vậy. Chính điều đó đã làm con cảm thấy hoang mang. Mong thẩy chỉ bảo cho con ít lời...
      Thiền sư lộ vẻ vui tươi:
      – Khá khen cho con vừa thông minh vừa thẳng thắn. Ta thật hài lòng. Hôm nay chúng ta đã được vua ban đặc ân mặc ý đi thưởng ngoạn các danh lam thắng cảnh tại kinh đô miễn phí. Nghĩ con còn quá trẻ, ta đã khuyên con cũng nên đi một vòng cho biết. Thế nhưng vì lo nghĩ về ta, con đã dùng dằng không chịu đi. Thôi, thế cũng được. Con đã ở nhà thì ta tính chuyện khác. Ta đã thu nhận con làm đệ tử hơn năm năm nay mà thật sự chưa có dịp nào để tâm tình với con. Bây giờ con đã thẳng thắn bày tỏ thắc mắc trong lòng với ta, ta ngại gì mà không giải đáp cho con biết! Hãy đi pha một bình trà loại trà vua mới ban tặng rồi ngồi lại đây ta sẽ nói cho con nghe.
      Thiện Ứng hớn hở dạ một tiếng rồi đi pha trà. Một lát sau chú bưng trà lại rồi thưa:
– Bạch thầy, trà này chắc ngon. Con nghe cái mùi có vẻ hấp dẫn lắm.
– Tất nhiên. Của vua ban mà! Con hãy ngồi cùng uống với thầy một chén để chia sẻ chút ân huệ của vua. Đây là chỗ dành riêng cho thầy trò ta, tưởng cũng nên giản tiện bớt chuyện lễ nghi phiền phức. Con cứ tự nhiên ngồi nghe ta nói chuyện.
 
***
 
Ta sinh ra ở làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, phủ Thượng Hồng, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Hồi ấy cha mẹ ta mới có ta nên đã cưng quí ta như vàng. Cha ta là một thanh niên trẻ trung, khỏe mạnh, làm việc cần mẫn nên gia đình ta cũng đủ sống. Mẹ ta chỉ ở nhà lo việc bếp núc, may vá và săn sóc ta. Cha ta định đợi ta lớn thêm chút nữa sẽ tìm một học xá để gởi ta đến học hành. Tương lai của ta tưởng sẽ sáng sủa như vậy. Bất ngờ một trận dịch ác nghiệt đã quét qua làng ta. Trận dịch ấy đã giết hại nhiều người, trong đó có cả người cha thân yêu của ta. Thế là mẹ con ta bắt đầu nếm mùi đau khổ. Tất nhiên mẹ ta phải dấn thân làm các công việc vất vả để nuôi sống hai mẹ con. Lúc ấy dù chỉ mới lên bốn nhưng ta đã nhận biết nỗi cực nhọc, khó khăn mà mẹ ta phải gánh. Ta chẳng còn ham chơi, chẳng còn đòi ăn ngon mặc đẹp như trước mà luôn vâng lời mẹ, phụ làm các việc nhỏ nhặt để đỡ tay cho mẹ. Tưởng chỉ như thế thì hai mẹ con cũng gắng chịu đựng qua ngày tháng được. Nhưng khốn nỗi họa vô đơn chí! Hai năm sau mẹ ta lại qua đời vì một trận tiêu chảy không cầm được. Thử tưởng tượng một đứa bé mới sáu tuổi lâm vào cảnh mất sạch cả cha lẫn mẹ sẽ phải đau đớn đến cỡ nào? Ta đã quá tuyệt vọng, chỉ muốn tìm cách theo chân cha mẹ ta luôn! May thay, những người hàng xóm tốt bụng đã cùng nhau giúp việc an táng mẹ ta. Mặt khác, họ đã tận tình ra tay cứu vớt ta. Họ thay nhau khuyên lơn, an ủi, dỗ dành để ta bớt đau khổ, bi quan. Họ thay nhau giúp ta kẻ bát cơm, bát cháo, người năm ba củ khoai... đủ cho ta tạm sống qua ngày. Một người cô họ xa của ta –  một góa phụ neo đơn, đã đề nghị đến ở nhà ta để sớm hôm cô cháu nương tựa nhau. Tất nhiên ta rất vui lòng vì có cô, ta cũng đỡ bớt cảm thấy cô đơn, trống vắng. Nói cho cam, người cô của ta cũng thuộc hạng vụng về. Cô tự lo cho bản thân cũng đã vất vả lắm, ta đâu dám mong cô giúp đỡ gì. Nhờ đã quen làm các công việc lặt vặt giúp mẹ ta từ hai năm qua nên ta đã mạnh dạn tình nguyện theo làm giúp những ai có những công việc tương tự. Ban đầu là việc lượm rác, nhổ cỏ dại, tìm bắt sâu bọ ở hoa màu, dần dần bước sang việc gieo hạt giống. Bất ngờ chưa bao lâu ta đã nổi tiếng là tay gieo hạt giống rất nhanh và gọn. Cũng dễ hiểu vì người lớn muốn gieo hạt khỏi trật lỗ đào thường phải cúi gập mình xuống, đau lưng khó chịu lắm. Còn ta thấp bé chẳng cần cúi, lại nhanh tay hơn họ nhiều. Thấy ta siêng năng, nhanh nhẹn, làm được việc, ai cũng hài lòng. Từ đó hết người này đến người nọ dồn dập mướn ta đi gieo giống. Thế là ta không còn phải lo sợ chuyện đói rách nữa. Ai nhờ giúp việc gì ta cũng làm hết lòng, trả công sao cũng được. Chẳng bao giờ ta so đo, đặt điều kiện hay đòi hỏi nọ kia. Nhờ vậy mà ta đã chiếm được cảm tình của hầu hết những người chung quanh. Trong lúc đi làm mướn, ta vẫn thường được nghe đủ thứ chuyện do người lớn nói với nhau. Lần kia, khi đang gieo hạt cho một nhà ở xóm trên, ta nghe một người kể:
       – Cái mạng vợ tôi thế mà to lắm, nếu không nay tôi đã phải cúng 49 ngày cho bà rồi. Bà ấy bị tiêu chảy hai ngày liền không cầm được, đã đuối sức tưởng phải xuôi tay. May sao lúc đó lại có ông anh họ tôi đến thăm. Anh ấy liền bày cho tôi kiếm lả ổi nấu lấy nước cho bà uống. Không ngờ nước lá ổi uống hiệu quả lắm. Tôi mới nài ép vợ tôi uống được một bát thì thấy cơn đi sông của bà đã có vẻ giảm. Mừng quá, tôi liền mớm cho bà mấy muỗng cháo lấy sức rồi lại cho bà uống thêm mấy đợt nữa. Cuối cùng chứng đi sông của vợ tôi ngừng hẳn. Thật là phước đức ba đời để lại. Tiếp đó chỉ cần cho bà ăn uống bồi dưỡng cho lại sức thôi.
Một người thốt lên:
      – Lá ổi công dụng đến thế mà lâu nay mình đâu biết!
      Ta giật mình nhớ chuyện nhà mà tiếc hận bất giác bật khóc:
      – Trời ơi, thật như thế sao? Trong vườn con có đến bốn cây ổi mà mẹ con cũng mất vì cái bệnh tiêu chảy không cầm được đó!
      Ông chủ nhà tỏ vẻ thông cảm với ta:
     – Thế à, oan uổng chưa! Ai ngờ nằm trên cây thuốc mà đành chịu chết, đáng tiếc thật! Dù sao chuyện cũng đã lỡ rồi cháu ơi. Xưa nay người ta chết oan như vậy cũng nhiều.
      Mấy người khác nghe thế ai cũng lựa lời an ủi giúp ta nguôi cơn tiếc hận.
     Đêm đó ta cứ thao thức suy nghĩ mãi. Ta lại hồi tưởng trận dịch ác nghiệt đã tước đoạt mạng sống của cha ta. Hồi ấy dân làng ta bị chết rất nhiều. Nơi nào cũng nghe tiếng khóc bi ai của những người mất cha, mất mẹ hay mất em... Một điều tức cười là ai mất trước hóa ra lại may mắn hơn những kẻ mất sau. Những người mất sớm nhờ nhân lực của làng còn dồi dào nên đã được chôn cất khá chu đáo. Càng về sau nhân lực của làng càng hao mòn nên việc chôn cất nạn nhân càng qua loa, cẩu thả. Tới lúc cha ta mất thì nhân lực của làng đã bị kiệt quệ. Hầu như những kẻ may mắn sống sót đều bị nhuốm bệnh cả. Vì vậy, những gia đình có người mất muộn như cha ta đều gặp khó khăn trong việc chôn cất. Giữa lúc mẹ con ta còn lúng túng thì may sao, vị quan phủ Thượng Hồng đã phái một đội quân đến cứu giúp làng ta. Đội quân này đã hoàn tất việc chôn cất những người xấu số còn lại. Đồng thời, họ cũng phát gạo, phát thuốc uống và hướng dẫn dân làng vài cách thức ngừa bệnh, chống bệnh... Nhớ đến đây ta tự hỏi, nếu không có đội quân tốt bụng ấy giúp đỡ, mẹ con ta biết xoay xở ra sao? Ta cũng hồi tưởng lại lúc mẹ ta mất, nếu không có những người láng giềng tốt bụng an ủi, giúp đỡ thì bản thân ta sẽ ra thế nào? Chính ta đã mang một khối ơn nghĩa quá to lớn của xã hội, của xóm làng. Phải làm sao để đền đáp tấm ơn nghĩa to lớn đó? Lại nghĩ đến cái vụ mẹ ta sống trong một vườn ổi mà lại phải chết vì cái bệnh tiêu chảy không cầm được ta càng tiếc hận. Ta đã phân vân suy nghĩ gần suốt đêm. Cuối cùng ta quyết định phải học cho được nghề làm thuốc để trả ơn đời.
      Từ đó, hễ nghe ai nói đến chuyện bệnh tật, thuốc thang ta lại tìm cách làm thân với người đó để hỏi han, tìm hiểu. Nhờ ngày nào cũng đi giúp việc, gần như khắp làng, nên ta đã có rất nhiều cơ hội để tìm hiểu. Lâu lâu ta lại gặp được một vài người hiểu biết khá sâu rộng giải thích về các chứng bệnh tật và chỉ bảo cho ta cách sử dụng các giống cây cỏ có dược tính để chữa trị. Lúc này ta mới dần biết cây cỏ ở nước ta có rất nhiều loại có dược tính. Thế rồi ta đã dủng toàn bộ thời gian nghỉ giải lao để tìm kiếm các loại cây cỏ đó. Ta đã cố gắng tìm hiểu cách sử dụng chúng. Sự tò mò tìm hiểu về các loại cây cỏ của ta dần dần được những người lớn chú ý. Ngày kia, trong khi mấy người cùng dọn rẫy làm mùa đang ngồi nghỉ, thấy ta loay hoay cố vạch một bụi gai rậm để hái lá một cây thuốc bên trong, một người khen:
      – Thằng bé Bá Tĩnh thông minh và có chí lắm. Rồi đây nó sẽ trở thành một ông thầy thuốc giỏi thật đó.
      Một người khác tán thành:
      – Nó có chí lắm! Cũng mong cho nó thành công con cháu mình sẽ được nhở!
      Nhưng liền đó ta nghe một giọng phản bác:
      – Thông minh, có chí mà không ai đỡ đầu cũng vứt đi. Dễ gì mà thành thầy thuốc? Học thuốc mà không tới nơi tới chốn không khéo chỉ thành lang băm hại người thôi. Các bác chưa nghe vụ một thầy thuốc vì dốt dùng lầm hai thứ thuốc khắc nhau để chữa trị một con bệnh kết cuộc con bệnh phải qua đời sao? Cũng có trường hợp gia chủ vì nôn nóng mà mời tới hai thầy thuốc giỏi để chữa cho một con bệnh rồi con bệnh vẫn không qua khỏi chỉ vì hai ông thầy không ăn ý nhau, dùng thuốc nghịch nhau sao? Một ông thầy thuốc giỏi ít nhất cũng phải biết chữ. Phải ghi chép từng chi tiết diễn biến của từng con bệnh, phải ghi chép từng sự cố xảy ra liên hệ đến bệnh tật để rút kinh nghiệm chứ đầu óc nào mà nhớ nổi vô số những điều thấy được? Bá Tĩnh đào đâu ra chữ nghĩa để ghi chép, để nghiên cứu? Kiếm miếng ăn chưa đủ khéo mơ ước chuyện viển vông.
      Câu nói ấy đã làm ta giật mình! Quả thật, ta chỉ mới thu thập một ít kiến thức về dược tính của các loại cây cỏ mà đã có vẻ nhớ không xuể rồi. Đó là chưa nói đển những điều rắc rối khi hốt thuốc nữa. Ta đã nghe nói, nhiều loại cây thuốc có thể mang dược tính giống nhau nhưng không thể dùng chung vì bản chất của chúng khắc kỵ nhau. Nếu thầy thuốc không rành, hốt một thang thuốc nhằm nhiều loại cây thuốc khắc kỵ nhau thì việc chữa trị có thể bị giảm hoặc mất hiệu nghiệm. Có khi còn gây nguy hại cho bệnh nhân nữa. Với bao nhiêu rắc rối như thế, nếu không có sổ sách trợ sức, đầu óc nào mà nhớ nổi? Nỗi thất vọng đột nhiên ập đến: Tiên thánh nào có thể giúp ta chữ nghĩa đây?
      Ta đang lo bấn ruột thì may sao, lại có một giọng khác cất lên:
      – Bác cho là Bá Tĩnh không thể thành thầy thuốc giỏi sao? Đừng khinh, đó chỉ là ý riêng của bác. Sông có khúc, người có lúc, khi nên trời giúp mấy hồi? Kẻ có chí có tài lo gì không lập thân được. Nghe nói mai mốt đây chùa Hải Triều (ngày nay là chùa Giám ở làng Yên Trung, huyện Cẩm Giàng) sẽ đến phát chẩn ở vùng mình. Trong dịp này ta thử thưa về tình cảnh của Bá Tĩnh với chùa xem sao? Biết đâu chùa chẳng đưa nó về cho học hành giúp nó làm nên? Ông Lý Công Uẩn ngày xưa cũng là một trẻ mồ côi, nhờ ở chùa mà phát tích trở thành ông tổ triều Lý đấy!
      Nhiều người nhao nhao tán thành:
      – Phải rồi, ý đó hay lắm. Nếu Bá Tĩnh thực hiện được ước muốn thì sau này con cháu mình sẽ được nhờ chứ ai! Chúng ta phải xin chùa giúp Bá Tĩnh xem sao.
Ta nghe mà mát lòng mát dạ hết sức! Những lời nói ấy đã xua tan nỗi thất vọng trong ta. Ta tiếp tục hăng hái vừa đi làm vừa sưu tầm các loại cây cỏ có dược tính...
      Quả thật chừng hơn mười ngày sau thì hai vị sư ở chùa Hải Triều đã dẫn một phái đoàn mang đồ cứu trợ đến giúp dân nghèo ở các làng thuộc phủ Thượng Hồng. Khi phái đoàn phát chẩn qua làng Nghĩa Phú, mấy người trong làng đã thưa trường hợp của ta với các sư. Vị trưởng đoàn là sư Trí Đức liền cho gọi ta đến hỏi:
      – Con muốn xuất gia theo thầy vào chùa không?
      – Bạch thầy, con rất muốn.
      – Vì sao con lại muốn xuất gia nói rõ cho thầy nghe được không?
      Ta đã thành thật trình bày:
      – Bạch thầy, con đã thấy tận mắt cảnh chết chóc đau thương của dân làng vì một trận dịch cách đây năm sáu năm, trong số người chết có cả cha của con. Mẹ con cũng bị chết vì bệnh cách đây ba năm vì bệnh tiêu chảy. Con quá sợ hãi, quá ghê tởm các giống bệnh tật. Bởi lẽ đó, con muốn trở thành một người thầy thuốc để giúp đời nhưng con lại không biết chữ nên con lo ngại chí nguyện sẽ khó thành. Vì vậy, con muốn đến chùa để được học đạo và cũng để ăn mày chữ nghĩa. Con nghĩ việc tu hành và việc làm thầy thuốc đều hướng về một mục đích cứu khổ cứu nạn chúng sinh chắc hẳn không gây trở ngại cho nhau. Hi vọng nhà chùa sẽ không từ chối.
      Sư Trí Đức mỉm cười:
      – Ai dạy con ăn nói khéo thế? Được rồi, thầy sẽ cho con về ở chùa Hải Triều. Con hãy thu xếp chuyện nhà cửa, thăm viếng từ giã bà con bạn bè trong vòng hai ngày rồi thầy sẽ cho người đến đón.
      – Dạ, con xin đa tạ thầy.
      Sau khi từ giã sư Trí Đức, ta vui mừng trở về thu xếp việc nhà. Thật tình ta cũng chẳng có gì để thu xếp, nhà đã có người cô họ ở, cứ để vậy cũng xong. Ta chỉ nhờ người cô nhớ hương khói ngày kỵ của cha mẹ ta là đủ.
      Bác Huấn, thuộc loại khá giả cùng xóm nghe ta sắp vào chùa liền đề nghị:
      – Chúc mừng con. Con còn bé mà đã nuôi một ý nguyện quá cao đẹp, bác rất nể phục. Bác đã có ý muốn giúp con chút đỉnh để con thực hiện ý nguyện đó nhưng chưa có dịp. Nay con được đưa về chùa tất nhiên ý nguyện của con thế nào cũng thực hiện được. Để chia sẻ niềm vui này, bác muốn bày một bữa cơm thân mật ở nhà để mời những người quanh xóm mình đến chúc mừng và chia tay với con. Những người ở xóm khác, ai thân thiết với con cứ tùy ý mời họ tới dự. Bác sẽ bao hết. Nhận lời bác tức là con đã tặng bác một niềm vinh dự đấy. Con vui lòng nhé!
       Bác Huấn là người tốt, đã nhiều lần giúp đỡ nhả ta. Ta cũng từng giúp việc cho bác, lúc nào cũng được bác trả công hậu hĩnh. Thấy bác tỏ ý thành thật giúp ta nên ta rất cảm động, cám ơn bác và nhận lời. Thế là trưa hôm sau, tại nhà bác Huấn, một cậu bé mới chín tuổi (là ta) đã được ngót bốn mươi người cả nam lẫn nữ đến chúc mừng, dặn bảo với những lời những lời lẽ ân cần, tha thiết làm ta rất xúc động... Thấy ta cứ lí nhí cám ơn, bác Huấn lớn tiếng:
       – Cháu Bá Tĩnh đã quá xúc động trước tình cảm nồng thắm của bà con nên cứ ấp úng nói không ra lời, tôi xin tạm thay mặt cháu cám ơn tất cả mọi người đã bỏ chút thì giờ quí báu để đến chia tay và cho cháu những lời chúc mừng, những lời khuyên bảo quí giá, hi vọng những lời này sẽ rất bổ ích cho cháu trên quãng đường đời kế tiếp.
      Nói thế xong bác Huấn quay sang bảo ta:
      – Bá Tĩnh, con muốn nói gì với bà con nữa không?
     Ta lúng túng trình bày đại khái: Cháu bị mồ côi cha mẹ từ lúc còn thơ dại. May được bà con xóm làng giúp từng bát cháo, từng củ khoai, từng manh áo, từng lời an ủi, khuyên dỗ dịu ngọt cháu mới vượt qua được những ngày đói rách, đau khổ. Món nợ ân tình quá to lớn đó cháu làm sao quên được? Vả lại, cháu còn mang một nỗi tiếc hận riêng. Mẹ cháu đã chết vì bệnh tiêu chảy trong khi vườn nhà cháu lại có rất nhiều ổi mà nước lá ổi nấu lại là thứ cầm tiêu chảy rất hiệu nghiệm! Khi biết ra thì sự đã rồi. Sau nhiều lần suy nghĩ, cháu đã quyết định phải làm sao để trở thành một ông thầy thuốc để giúp đời. Từ đó, trong khi đi giúp việc cho bà con để nuôi thân, cháu đã không ngừng tìm hiểu, học hỏi về dược tính của các loại cây cỏ và cách dùng. Ban đầu cháu cứ ngỡ mình sẵn trí nhớ tốt, việc thu lượm, tích lũy kiến thức về các loại cây cỏ có dược tính không khó, tất nhiên việc trở thành một người thầy thuốc cũng không khó. Thế nhưng chỉ mới tập tễnh những bước đầu cháu đã ngộ ra mình đã vấp một trở ngại quá lớn: Cháu đã được học hành gì đâu? Không biết chữ để đọc sách nghiên cứu, để học hỏi thêm, để ghi chép kinh nghiệm mà mong trở thành thầy thuốc giỏi sao được? Trong lúc cháu đang bối rối thì may sao, bà con xóm làng lại một lần nữa ra tay giúp cháu. Nếu cháu được về ở chùa, tất nhiên mối lo chữ nghĩa của cháu sẽ không còn. Nếu mai kia cháu được trở thành một lương y như ý, cháu nguyện sẽ trở về phục vụ bà con, xã hội để đền đáp ơn sâu mà con đã mang...
      Ta nói chưa dứt lời mọi người đã vỗ tay bôm bốp. Nhiều người đã ôm ta mà hôn hít khiến ta xúc động đến rơi nước mắt. Khi về chùa Hải Triều ta đã được xuống tóc, thọ giới sa di với pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Trong chúng sa di đã sẵn có bốn chú, ta là sa di thứ năm, cũng là sa di nhỏ nhất, mới chín tuổi. Hằng ngày, ngoài việc học kinh kệ, chúng sa di có trách nhiệm về một số việc vặt như hái củi, gánh nước, trồng hoa, nhổ cỏ quanh sân chùa, báo khách đến... Thỉnh thoảng quí sư đi hành lễ đâu đó mới dẫn một vài sa di theo để phụ việc. Bình thường thì chúng sa di tự phân chia công việc để làm, ta nhỏ nhất nên cũng được phân chia công việc nhẹ nhất. Những khi rảnh rỗi ta lại được sư Trí Đức dạy cho học chữ. Ta siêng học và nhớ dai lẳm. Có lần sư Trí Đức đã nói đùa “Con học như thế không bao lâu nữa chắc thầy hết chữ mất”. Thế rồi sư lại càng siêng dạy ta hơn. Về sau ta lại được đưa đến chùa Giao Thủy, còn gọi là chùa Keo (Thái Bình) để học hành thêm.
      Tuy vừa học đạo, vừa gắng học thêm chữ nghĩa, ta vẫn không ngừng việc tìm hiểu về các loại cây cỏ có dược tính. Nói thật tình, vì ta đã quyết chí phải trở thành một vị lương y nên ta đã chú tâm vào việc học chữ và học thuốc hơn là việc học đạo. Nhờ việc học đạo đã có lề lối sẵn, mình cứ thực hiện theo công thức thường ngày cho trôi tròn là đủ. Ta không có thì giờ để tìm hiểu, nghiên cứu tính cao thâm của giáo lý nhà Phật như các vị chân tu đâu. Sở dĩ ta được tôn xưng vào bậc Trưởng lão hòa thượng như hiện nay chỉ nhờ sự sống lâu ra lão làng chứ thực chất hạnh tu của ta chưa có gì gọi là đạt đạo. Bản chất ta vẫn hoàn nguyên là một phàm nhân. Ta vẫn biết ghét, biết thương như mọi người. Ta đã từng bỏ ăn, bỏ ngủ để học hỏi, nghiên cứu, thử nghiệm, khổ công cả một đời mới trở thành một vị lương y. Nếu ham công danh phú quí ta đã ra làm quan từ lâu. Ta đâu muốn lăn lộn giữa chốn quan trường? Ta chỉ quyết lòng thực hiện ước nguyện: phục vụ đám dân quê chân chất sống đầy ắp tình người để đền ơn họ đã từng cưu mang ta khi ta còn bé dại. Ta rất yêu thương họ và muốn sống gần gũi với họ suốt đời. Thế mà bây giờ lại bị ép phải đem cái sở học bình sinh của cả một đời ấy để phụng sự một triều đình đế quốc tham lam, tàn ác lúc nào cũng chực làm hại nước ta bảo ta vui sao được? Nói thế chắc con đã hiểu vì sao ta có vẻ khổ tâm trong chuyến đi này rồi?
      Sa di Thiện Ứng thở dài:
      – Cám ơn thầy, giờ con đã hoàn toàn hiểu tâm trạng của thầy. Thầy có thể cho con góp một ý nhỏ xem thử có giúp ích được chút gì cho thầy không?
      Thiền sư nghe Thiện Ứng nói hơi ngạc nhiên:
      – Có ý gì cứ nói thầy nghe thử.
      – Bạch thầy, thầy được cống cho thiên triều với tư cách là danh y hay danh tăng?
      – Tất nhiên với tư cách danh y. Trước đây không lâu họ đã đòi nước ta cống 20 danh tăng rồi.
      – Vậy, nếu họ tuyển thầy vào viện Thái Y, con nghĩ thầy không nên trổ tài, cứ tỏ ra vụng về kém cỏi may ra họ chán nản mà trả thầy về nước chăng?
      – Ối chà, có lý lắm đấy! Để thầy coi lại.
      Sáng hôm sau, bộ Lễ triệu tập số người được cử sang phục vụ Minh triều về điện Chấn Hưng để nghe vua Xương Phù ban hiểu dụ. Khi mọi người đã được tập trung đầy đủ, vị quan bộ Lễ đã cẩn thận dặn dò họ khi nghe trung quan hô “Hoàng đế giá lâm” thì phải làm sao, khi vua bước vào điện thì phải lạy chào như thế nào. Viên quan bộ Lễ cũng cho biết có khi vua bận việc, ngài sẽ cử một vị thân vương thay mặt đến, khi đó nghi thức đón chào có thể thay đổi ít nhiều. Hầu hết những người cống phẩm sống này đều chưa được chiêm ngưỡng mặt rồng bao giờ nên họ đều hồi hộp ngóng đợi...
      Cuối cùng vua Xương Phù không đến thật. Trang Định vương (Trần Ngạc) đã thay mặt vua đến hiểu dụ mọi người về sứ mạng của chuyến đi Bắc. Đại khái Trang Định vương cho biết Đại Việt đang gặp nhiều khó khăn. Phía Nam đang bị Chiêm Thành quấy rối không ngừng, phía Bắc lại bị Minh triều uy hiếp. Nhà Minh cứ nay yêu sách này, mai yêu sách nọ liên miên. Nếu mình không thỏa mãn cho họ, họ có thể lấy cớ đó để gây chiến. Sợ chiến tranh nổ ra thì muôn dân sẽ càng khổ nên triều đình phải cố nhịn nhục. Những người sang phục vụ cho Minh triều sẽ được coi như những anh hùng đã hi sinh cho sự sống còn của đất nước, sẽ được tổ quốc ghi ơn, sẽ được tôn vinh mãi mãi...
      Thấy một số người lộ vẻ băn khoăn, lo ngại, Trang Định vương trấn an:
      – Nói là hi sinh nhưng các ngươi chớ nên lo lắng, sợ hãi lắm. Những người đã ra đi trong các chuyến triều cống trước đều được Minh triều trọng dụng, được hưởng một cuộc sống đầy đủ, an nhàn cả. Tuy vậy, ta cũng dặn nhỏ các ngươi, đừng nên khoe khoang về nhân tài, về những sản vật quí báu của nước mình làm gì. Người Minh rất tham lam, thấy nước nào có cái gì quí báu, tốt đẹp họ đều muốn vơ vét hết. Trước đây hai tên nội nhân được đưa đi cống là Nguyễn Tông Đạo và Nguyễn Toán đã khoe “tăng nhân nước Nam biết dựng đạo tràng giỏi hơn tăng nhân phương Bắc” khiến Minh triều đòi hỏi nước ta phải cống nộp 20 tăng nhân. Hai tên nội nhân này cũng khoe nước ta có nhiều loại trái cây rất ngon như vải, ổi, mít, cau v.v... khiến người Minh lại đòi nước ta phải bứng gốc một số loại cây trên chuyển sang cho họ làm giống. Dân ta đã phải phục dịch khốn khổ trong việc này, nhưng các loại cây ấy lại không chịu nổi khí tiết lạnh lẽo của phương Bắc nên mới chuyển đi nửa đường đã chết hết. Khoe khoang như thế là vô tình gây hại cho tổ quốc, phải cẩn thận mới được. Ta nói như thế đã tạm đủ. Thay mặt hoàng thượng, ta cầu chúc các ngươi có được một chuyến đi tốt lành.
      Sau khi Trang Định vương lui bước, viên quan của bộ Lễ mời mọi người ra vườn hoa sau điện Chấn Hưng để dự bữa yến của nhà vua ban. Ngoài việc ban yến, vua Xương Phù còn chỉ thị bộ Lễ tặng mỗi người một số tiền để tiêu xài dọc đường.
      Căn cứ vào văn thư giới thiệu sẵn, khi đoàn “cống phẩm sống” An Nam vừa đến Yên Kinh, Thiền sư Tuệ Tĩnh liền được bổ nhiệm ngay về viện Thái Y. Lúc bấy giờ Thiền sư đã vào tuổi 56, đi đâu ngài cũng dắt theo sa di Thiện Ứng bên mình. Khi Thiền sư được đưa đến viện, chính viện trưởng Lục Sâm đã đón tiếp với những lời nồng nàn:
      – Viện tôi rất vui mừng được sự hợp tác của một danh y nước Nam. Trước đây viện tôi cũng đã được một số danh y của các nước Triều Tiên, Nhật Bản hợp tác, nay có thêm ngài nữa, hi vọng công việc của Viện mỗi ngày một khởi sắc hơn.
      Thiền sư Tuệ Tĩnh thưa:
     – Thưa ngài viện trưởng, bần tăng không xứng đáng với hi vọng của ngài đâu! Thật tình bần tăng chỉ là một kẻ tu hành thôi. Chẳng qua vài lúc rảnh rỗi bần tăng tập tành sưu tầm một ít dược thảo để dùng những khi nhức đẩu sổ mũi, đáng chi mà gọi là danh y.
     Viện trưởng Lục Sâm cười:
     – Thôi, ngài đừng khiêm tốn nữa. Khỏi lo việc tu hành của ngài bị trở ngại. Bổn viện sẽ thu xếp, mọi sự sẽ êm đẹp hết. Ngài cứ yên tâm làm việc với viện. May mắn hiện trong khuôn viên viện có sẵn một ngôi nhà trống cũng khá đầy đủ tiện nghi. Thầy trò ngài cứ việc thu xếp lại theo ý mình mà ở. Ổn định chỗ ở xong ngài sẽ bắt đầu làm việc.
     Nói xong ông viện trưởng sai một nhân viên dẫn thầy trò Tuệ Tĩnh đi xem nhà. Thiền sư nói nhỏ với sa di Thiện Ứng:
     – Thôi, từ từ mình sẽ tính.
     Không ngờ ngay hôm sau có một nhà hào phú họ Nguyễn ở Kim Lăng, vốn là một Phật tử, đến gặp sư và tự nguyện bỏ tiền ra thiết lập giúp Thiền sư một bàn thờ với một pho tượng Phật bằng ngọc thạch trong ngôi nhà ấy để sư tiện việc kinh lễ hôm sớm. Nhà hào phú này cũng tự nguyện giúp ngài việc bố trí, phân cách ngăn nắp chỗ ăn, chỗ nghỉ, chỗ làm việc trong ngôi nhà ngài ở đâu ra đấy đàng hoàng.
      Không từ chối được, ngài chỉ biết than thở với sa di Thiện Ứng:
     – Họ ràng buộc đến thế thầy nghĩ mình cũng khó xoay xở đấy.
     – Bạch thầy, đành gắng chờ dịp khác vậy!
 
(Còn tiếp một kỳ)

-- Ngô Viết Trọng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nói về món ăn thuần túy ở Việt Nam, mỗi miền nổi tiếng với đặc sản riêng, khi gọi tên món ăn đó gợi lên hình ảnh của nơi nào rồi. Với món phở, theo thời gian đã đi vào văn chương qua các ngòi bút nhà văn, nhà thơ từ thập niên đầu của thế kỷ XX trong các tác phẩm...
Sau ba tuần ở trại nhỏ Tha Luông miền Nam nước Thái, nhóm tàu chúng tôi được chính thức nhập trại Panatnikhom vào giữa tháng 1 năm 1990. Cuộc sống dần trở nên quen thuộc nơi trại tỵ nạn, mỗi ngày trôi qua như mọi ngày...
Mặt đất khô cứng dưới lưng cô. Trong bóng tối, cô không nhìn rõ khuôn mặt của gã. Nhưng cái mùi của gã thì nồng nặc bao trùm lấy cô, một cái mùi tổng hợp của mồ hôi, thuốc lá, gia vị món ăn… khiến cô muốn lộn mửa. Và thân hình to béo của gã đè nặng lên người cô...
Hai người bước vào Quán Nửa Khuya. Cô gái đi trước, mặt trái xoan, tóc dài, người mảnh khảnh áo jacket màu nâu nhạt. Chàng trai theo sau, mặt vuông, tóc bồng bềnh, cao hơn cô gái một cái đầu, vai rộng, sport coat màu sậm...
Khoảng cuối năm Ất Mão, không biết bệnh ghẻ phát xuất từ đâu, lan tràn nhiều nơi ở miền Nam Việt Nam và đặc biệt phát triển mạnh trong các trại tù. Ghẻ lan đi như một trận dịch. Người ta nói ghẻ theo chân mấy anh bộ đội từ rừng sâu về đồng bằng nên cũng gọi là ghẻ bộ đội...
“Phải như chị có được đôi mắt lá răm giống em, chắc chị hạnh phúc lắm.” Người đàn bà nói với Trâm câu ấy bao nhiêu lần nàng không còn nhớ nữa. Những buổi chiều ngồi nhìn nhau trên hai chiếc ghế mây mua được từ một buổi chợ phiên thị trấn dưới chân núi mùa hạ trước. Hết nhìn con đường quanh co dẫn vào khoảng xanh thẫm của bệt mầu đan bằng cây lá, lại nhìn sâu vào mắt nhau và bao giờ người đàn bà cũng ngậm ngùi. Phải như chị có đôi mắt giống em, chắc chị hạnh phúc lắm. Hạnh phúc là gì hở chị. Một lần Trâm đã hỏi lại người đàn bà như thế. Và chị đã chỉ nhìn sâu vào mắt Trâm, lặng lẽ mỉm cười. Hạnh phúc ảo tưởng. Đêm qua em nằm mơ, cứ thấy như trong cổ tích chị Tuyết ơi. Em thấy em là công chúa ngủ trong rừng.
Khi bố tôi qua đời năm 2000, thọ 80 tuổi, tôi thừa kế gia sản của ông, một xưởng mộc và một cửa hàng bán đồ gỗ gia dụng, tọa lạc tại Nam California. Bố tôi là một thần tượng không ai thay thế được trong đời tôi. Bố để lại một di chúc viết tay riêng cho tôi, dặn dò con phải đọc cuốn gia phả quí giá, giữ gìn, in lại thành vài bản và truyền lại cho các con, cháu...
Chiều nay có cuộc họp sau giờ dạy, Cầm về nhà muộn hơn mọi ngày. Vừa mệt vừa đói bụng ngồi vào bàn ăn thấy món thịt kho trứng bên đĩa rau lang luộc chấm nước mắm tỏi ớt ngon lành...
Từ khi Thiền sư Tuệ Tĩnh bắt đầu làm việc ở viện Thái Y, ai cũng tỏ vẻ nể nang, tin tưởng ngài. Họ bàn tán với nhau: “Với sự cộng tác của người thầy thuốc tài danh xứ An Nam, chắc chắn công việc của viện sẽ tiến bộ hơn”.
Chuông điện thoại trên bàn quản đốc reo vang. Vinh đứng lên, bước qua nhắc lên nghe. Bên kia đầu dây có tiếng léo nhéo của nhiều người. Một giọng khàn khàn cất lên : “Tay nào đấy. Phi phải không ?” Vinh nhận ngay ra tiếng của Năm Trắc, phó giám đốc. Tôi nghe đây. Anh Bảy Phi không có ở văn phòng.”
Thuở xa xưa lắm rồi, lúc vị Thần Linh Cao Cả tạo dựng loài vật, ngài tạo ra đủ kiểu đuôi cho chúng. Ngài để chúng tự do lựa chọn cái đuôi mà chúng thích. Ngài trải các loại đuôi ra và gọi các loại thú đến chọn. Mỗi con vật tư chọn cái đuôi cho mình. Chú hải ly chọn một cái đuôi có bộ lông dày thật đẹp thật êm. Còn chú thỏ thì mải tung tăng trong rừng nên đến sau cùng và lúc đó chỉ còn một nhúm lông tròn, chú ta đành chịu vì không thể chọn cái đuôi nào khác...
Chúng tôi vừa thực hiện chuyến đi thăm vài tiểu bang dọc theo bờ biển vùng Đông-Bắc và Đông-Nam Hoa Kỳ. Khởi đầu chuyến đi ấy bằng cuộc du ngoạn từ Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Và nhân đây, chúng tôi xin được chia sẻ cùng các bạn vài điều hiểu biết và sự cảm nhận về thành phố này, nơi chúng tôi đã có dịp “cưỡi ngựa xem hoa” qua đó...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.