Hôm nay,  

Chân đi ngàn bước, cơm ngàn nhà…

1/20/202300:00:00(View: 2999)
Anne Khánh Vân
Anne Khánh Vân và sư thầy.
 
Anne Khánh Vân, sinh năm 1974 tại Saigon, tốt nghiệp kinh tế tại Pháp và Mỹ, hiện sống và làm việc tại miền Đông Hoa Kỳ. Tham gia VVNM từ những năm đầu của giải thưởng, tác giả nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2007 với tự truyện “Duyên Nợ Với Nước Mỹ.“, nhận giải Việt Bút Trùng Quang năm 2021.

Đây là bài VVNM mới nhất của cô gửi đến Việt Báo cuối năm Nhâm Dần.
  
*
  
Cuối tuần trước tôi ra khu Eden mua một số thức ăn. Trời đã lạnh nên tôi chỉ đi thẳng đến tiệm mình cần chứ không đi dạo vòng quanh. 
 
Từ xa thấy có hàng đợi dài từ trong ra cả phía bên ngoài cửa nên tôi chỉ hướng nhanh đến phía tiệm, không nhìn những chi tiết xung quanh. Khi vừa bước vô hàng thì nghe có tiếng mời, “mua bánh tét ủng hộ chùa đi con gái.” Tôi ngước về phía có tiếng nói thì thấy một người đàn ông trong y phục của một sư thầy với một chiếc áo khoác, đầu đội nón len.  Tôi gật đầu chào và sư thầy tiếp tục nói, “thầy có bánh tét nhân đậu, nhân chay nấm đông cô đậu hũ ky và có cả bánh tét nước tro nữa con… Mua ủng hộ chùa đi con.”  
 
Thầy trông rất hiền hòa và có giọng nói rất thân thiện. Trước kia, trước mùa dịch, tôi ra khu Eden thường hơn và có thỉnh thoảng thấy một vài người ngồi phía ngoài các tiệm, giới thiệu là Phật tử công quả bán rau củ bánh trái thức ăn chay dùm chùa.  Tôi không nhớ đã từng thấy các sư cô và sư thầy tự thân ngồi bán hàng ngoài hiên, nhất là mấy hôm nay trời đã lạnh, thế nên tôi có hơi ngạc nhiên.
 
Bên cạnh chiếc ghế nhỏ thầy ngồi có một thùng giấy để đứng. Bên trên thùng đó có một thùng nhỏ để ngang qua và thầy bầy một số bánh tét và vài hộp bánh ăn vặt. Dù chưa biết thầy là ai, ở chùa nào… hình ảnh này tự dưng làm tôi xúc động. Tôi tách rời khỏi hàng đang đứng đợi và đi qua chỗ thầy ngồi. Thầy giới thiệu lại chi tiết từng loại bánh.  Tôi thích bánh ít tro và hay mua những dịp mồng năm tháng năm nhưng chưa bao giờ thấy bánh tét nước tro nên quyết định mua thử một cái. 
 
Trong lúc thầy thối tiền thì tôi hỏi thăm thầy ở chùa nào và có ai phụ thầy gói bánh hay nấu nướng không. “Có, con gái, có sư cô phụ.  Thầy ở chùa Di Đà ở Annandale. Thầy có dán số điện thoại của chùa trên lá gói, nếu con ăn thử mà thích và muốn mua thêm thì con có thể gọi đặt thầy gói thêm nghen con.”
 
*
Về đến nhà tôi ăn thử ngay bánh tét nước tro vừa mua. Quả thật bánh thầy làm rất ngon. Phần nếp trong và dẻo như những bánh ít tro và nhân đậu xanh rất dầy, mềm và dẻo, trong khi nhiều bánh ít tro có khuynh hướng nếp nhiều nhân ít. 

Tôi bèn gọi điện thoại ngay cho thầy để khen cho thầy vui nhưng không ai trả lời phone. Chắc thầy vẫn còn bán hàng, chưa về lại chùa.
Chiều tối thầy gọi lại và quả thật thầy đã rất vui. Thầy gửi cho tôi xem hình khi thầy vừa vớt bánh và bầy bánh trên bàn cho ráo. Mỗi tuần sư cô và sư thầy gói 120 bánh tét.  Xem hình thật thích.
 
Mấy năm rồi tôi không thường lui tới khu Eden nên không rõ sinh hoạt thường ngày ngoài ấy. Tôi cũng không biết hết tất cả các ngôi chùa trong vùng nên không biết hết các sư cô và sư thầy. Tối hôm đó tôi nhắn tin hỏi chuyện với cô Lý. Cô Lý là Phật tử thuần thục và có văn phòng TSN ngoài Eden mấy chục năm qua. Chắc cô biết nhiều sư cô sư thầy.
 
Thế là hai cô cháu lại có dịp chuyện trò các món chay. Mỗi ngày sư cô chùa Di Đà ra Eden bỏ mối các món chay cho vài hàng quán và những ai đặt thức ăn chay với cô thầy. Cô Lý khen chả giò của chùa làm cũng rất ngon. Vài ngày sau tôi đã đến chùa mua thêm ba bánh tét nước tro và cũng mua thêm hai chục chả giò.  Sau đó tôi được biết sư cô ở cùng chùa và phụ thầy làm bánh và nấu các món chay là em ruột của thầy. 
 
 
Chùa… Chuồng Bò
 
Trước đó vài năm chúng tôi đã có duyên lành lui đến thăm chùa Xá Lợi ở Frederick tiểu bang Maryland. Một kỳ tích đáng được biết đến để khâm phục và quý trọng. Thầy viện chủ là một võ sư Nga My Phật Gia Quyền. Thầy và các võ sinh đã biến chuồng bò ở một nông trại bỏ hoang như một sở rác trở thành một ngôi chùa nghiêm trang và đầy từ hạnh. Thời gian đầu sau khi mua đất và trong lúc xây dựng chùa, thầy đi làm McDonald để có chi phí trả nợ tiền mua đất. Chùa dần được hình thành và công việc xây dựng cứ tiếp tục cho đến hôm nay, khoảng 20 năm.
Chùa vẫn còn những hình ảnh ngày xưa, khi chuồng bò còn như một sở rác. Cái cảnh mà theo cụ Nguyễn Du ngày xưa đã từng nói:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…
 
*
Lúc nhỏ tôi nhớ có xem một cuốn phim kể chuyện một linh mục trong khu đạo nghèo nuôi rất nhiều trẻ em mồ côi. Ông đánh box như nguồn thu nhập để lo cho các em. Dù xem phim đã hơn ba chục năm, một cảnh trong phim mà tôi không thể nào quên là trận đấu sinh tử tưởng chừng người linh mục đã mất mạng. Ngài đã lớn tuổi và cũng không phải người đánh box chuyên nghiệp. Hôm đó ngài bị đối phương tấn công thê thảm.  Trận đấu rất căng thẳng. Mặt mày ngài sưng vù máu me. Một… Hai… Ba… Người linh mục vẫn nằm thẳng đơ.  Bảy… Tám… Chín… Và động lực vực ngài đứng lên lại được và thắng trận, có tiền đem về khi ngài nghĩ đến các trẻ em và nghe tiếng các em kêu tên mình. Chuyện phim dựa trên một chuyện thật ở Mexico.  
 
Chúng ta tận mắt nhìn thấy đầy dẫy những hành động, việc làm phung phí hàng ngày, khắp mọi nơi. Vậy nên khi chứng kiến cảnh các cha, các thầy, các sơ, các ni-cô làm việc, lao động cực nhọc để có nguồn tài chính cho chùa, cho nhà thờ, cho các công việc từ thiện… tôi như được nhắc nhớ dường như mình vẫn tiết kiệm chưa đủ.
 
Nước Sạch
 
Thời gian còn làm việc với AECOM International Development, hàng tháng chúng tôi luôn được thông báo những cập nhật về kết quả của các công trình phát triển kinh tế ở những nước đang phát triển, nào là công trình làm tàu điện ngầm, xây đường xa lộ, phát triển hệ thống nhà thương… Tôi đặc biệt quan tâm theo dõi tiến triển của dự án phát triển hệ thống nước và làm sạch nước ở Châu Phi.  Hình ảnh trong các email gửi ra cho nhân viên xem là do chính nhân viên của công ty đã ghi nhận lại khi công tác bên ấy.

Đọc các mẩu chuyện trên phúc trình và xem hình ảnh mỗi ngày các em nhỏ, các gia đình chỉ hứng được một sô nước vàng đục để dùng cho cả nhà trong ngày, rất xúc động. Những dịp đó, công ty kêu gọi mọi người nên tập tiết kiệm nước sạch.
 
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta có rất nhiều cơ hội để tiết kiệm.  Ở xứ lạnh, mùa lạnh, nước cần xả ra một chút trước khi nước được nấu ấm chảy đến đầu vòi. Bao nhiêu trong chúng ta hứng lại nước sạch đó để dùng cho việc gì khác hữu dụng sau đó?  Hay là chúng ta cứ để cho nước sạch đó chảy ào ào xuống cống?
Trong những buổi hội họp, mỗi người được phát một bình nước. Nhiều quan khách chỉ mở ra hớp một miếng và bỏ lại. Khi dọn dẹp sau buổi hội họp, chúng ta giải quyết những bình nước đó ra sao?
 
Mùa hè năm 2000 khi Đức Giáo Hoàng John Paul đệ nhị và Roma đón chào khoảng hai triệu bạn trẻ từ khắp nơi trên thế giới đến dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, tôi cũng lẫn lộn trong số các bạn trẻ đó. Chúng tôi rảo bộ mấy chục cây số mỗi ngày trên các đường phố, con hẽm, viện bảo tàng, nhà thờ,… ở Roma. Vì số lượng giới trẻ khách tham dự quá lớn, Đức Giáo Hoàng và Roma đã tận dụng hết tất cả chỗ trống trong các trường học, sân vận động, trung tâm sinh hoạt cộng đồng… làm nơi cho chúng tôi tá túc ngủ nghỉ trong suốt tuần lễ dự đại hội.  Lo cơm nước ba bữa mỗi ngày cho hai triệu người đã là cả một việc lớn. Làm sao giải quyết chuyện tắm giặt hàng ngày cho cái bọn cuối ngày người đứa nào cũng chua lòm, mồ hôi rít hít áo vào da?
 
Bạn có thoáng nghĩ ra giải pháp chăng?
 
Không tắm sẽ không thể ngủ được dù có mệt rã rời cách mấy. Chúng tôi phải xếp hàng và mỗi đứa sẽ được hứng một xô nước khoảng hai gallon. Nước lạnh! Không có nhiều nước, và cũng không có thời gian để mỗi người tắm lâu hơn ba phút. Tắm nhanh, sạch và đi ra để người sau đi vô. Mỗi địa điểm như vậy có đến mấy trăm người. Đêm đầu còn vụng về và tắm sót. Chỗ ướt chỗ khô. Sang đêm thứ hai tự dưng biết cách xoay sở với mớ nước giới hạn đó và từ đầu xuống chân đều trôi sạch mồ hôi. Mát mẻ, sạch sẽ, khỏe khoắn… chui vào túi ngủ san sát bên nhau và thi nhau ngáy… o o vô cùng hạnh phúc.
 
Rõ ràng là sự phung phí hay tiết kiệm đều do thói quen và có thể luyện tập và thay đổi thích nghi rất nhanh. Cho đến hôm nay, tôi vẫn còn thói quen dùng nước rất tiết kiệm.
 
*
Thụt lùi khoảng bốn chục năm trước khi tôi còn ở cái xóm nghèo An Phú Cống Bà Sếp, Hoà Hưng, mỗi lần đi theo nội đi chợ, thỉnh thoảng tôi có được thấy những đoàn khất sĩ đi qua. Các ngài đầu trần chân đất bước đi thật chậm rãi, đều đặn và ngừng lại mỗi khi được thí thực. Có khi đoàn khất sĩ đi vào trong các xóm nhỏ. Khi đi ngang qua nhà, nội tôi chạy ra, mở nắp khăn trên bình bát, để bánh trái vào và đậy khăn lại. Các khất sĩ lại chậm rãi bước đi và ngừng lại vài chục giây trước mỗi nhà.  
 
Nội giải thích các thầy đi khất thực đồng thời tạo cơ hội cho chúng sinh tạo Phước khi cúng dường chia sẻ. 
Những hình ảnh thật an bình đó luôn khắc ghi trong trí nhớ thời thơ ấu của tôi. Và tôi luôn rất xúc động mỗi khi nhìn thấy những hình ảnh tương tự.  
 
Giây phút khi ngước lên nhìn thấy cảnh thầy ngồi bên hiên bán bánh tét, tôi đã nhớ lại hình ảnh đoàn khất sĩ năm xưa.  Ngày nay, khi mọi thứ không còn bị giới hạn bởi biên giới đất liền hay thông tin truyền thông, hình thức khất sĩ của các quý cha, quý thầy cũng thích nghi hơn với hoàn cảnh. Có thể là những chuyến đi giảng pháp, chia sẻ lời Chúa… từ châu lục này sang châu lục khác; có thể là những đêm không ngủ vì phải đợi máy bay bị trở ngại vì bão tuyết; có thể là những món ăn chay gieo duyên ăn chay…
 
Cảm ơn quý thầy, quý cha, quý sơ, quý cô… đã cho con có cơ hội được ủng hộ, được chia sẻ… và quan trọng hơn khi con đã được nhắc nhớ những thói quen mà ngày xưa nội ngoại đã gieo mầm trong con.
 
Có những nơi dư thừa phương tiện, nơi khác vô cùng hạn chế. Có những nơi khá giả, thừa thãi; nơi khác túng thiếu đói rét… Và chỉ khi mọi thứ giới hạn và khi chúng ta biết chi tiết quá trình từng thứ được tạo ra, và nhận biết khi không có là như thế nào, thì mình mới thật biết trân quý. 
 
Ông ngoại Cả Viên của tôi thường nói, “chờ đến khi mình dư giả mới chia, mới cho… thì có thể người ta đã chết, hoặc chẳng còn cần nữa!”  Dư giả và chia sẻ tạo phước mười thì nếu khó khăn mà vẫn tập tiết kiệm và chia sẻ thì tạo phước gấp bội. Tôi luôn nhớ ông dạy như vậy.
 
Chân đi ngàn bước, cơm ngàn nhà…
Một bình bát, một cà sa
Một bầu khất thực, ơn là trăm năm!
 
Ơn Thầy dừng lại
Cho con chung phần…
 
Anne Khánh Vân
Những ngày cuối năm Nhâm Dần
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Năm đó, 1999, miền Trung Việt Nam nhất là ở Huế đang chịu trận thiên tai bão lụt lịch sử lớn nhât từ trước cho đến thời điểm bấy giò. Trong hội chợ tết, người Việt ở đây San Jose vui Xuân nhưng không quên đồng bào ở quê nhà. Từng đoàn Hướng Đạo Sinh Việt Nam được phân phối nhiệm vụ cầm những thùng lạc quyên để quyên tiền cứu trợ. Đang lang thang trong hội chợ, hai em bé trong đồng phục Hướng Đạo chận tôi lại. Một trai một gái. Bé gái cao hơn bé trai non nữa cái đầu, chửng chạc nói “Chú ơi, ủng hộ đồng bào bảo lụt đi chú”. Trọn một câu tiếng Việt, tuy phát âm không trọn vẹn, nhưng khá rõ ràng. Tôi nhìn hai em, nhất là bé gái đang thắt cái nơ trên đầu cái nơ mầu đỏ! Tôi bỗng thấy lòng bâng khuâng man mác.
Qua sự giới thiệu của phụ huynh học sinh, chiều nay tôi có thêm học trò mới. Tuy tin tưởng vào người giới thiệu, nhưng tôi cũng có sự dè dặt thường lệ. Đây không phải là lớp dạy thêm bình thường, mà là lớp dạy kèm “Anh văn chui” tại nhà. Nếu bị bắt “tại trận”, tôi có thể bị đuổi việc (nhẹ) hoặc cả vào trại tù "miệt thứ" dài hạn như chơi. Tuy rất nguy hiểm, nhưng được sự “bảo mật” của học trò lẫn phụ huynh và nhất là khoản tiền thù lao rất hậu. Lương giáo viên cấp 3 lúc đó (1978-1979) mỗi tháng $70 đồng cộng nhu yếu phẩm, thì mỗi học sinh "dạy thêm" tôi nhận được $80/ tháng. Chỉ cần ba học trò là mỗi tháng tôi có thêm đến $240 đồng. Đối với giáo viên lúc đó không phải nhỏ! Cà phê cà pháo, cơm hàng cháo chợ cuối tháng vẫn dư tiền bỏ ống. Phần nữa, học trò lớp “Anh văn chui” của tôi thông thường chỉ vài ba tháng là “ra đi”, nên cũng thường xuyên thay đổi.
Vừa đi vừa ngắm lá vàng vừa suy nghĩ chuyện cũ mà đến nhà Sarah hồi nào hổng hay. Sarah mở cửa với nụ cười thật tươi, Lệ thấy ngay phòng khách những giỏ táo đầy ắp, Sarah giải thích: - Hễ cuối hè đầu thu là nhà tớ hái toàn bộ các trái táo ngoài vườn sau, một phần để sên mứt, phần sấy khô, và phần làm bánh táo nướng.
Nhà thơ Trần Mộng Tú gửi tới tôi bài “Mùa Hạ Đom Đóm và Dế Mèng” khi tôi muốn cùng các ông bạn đồng lứa tuổi trở về những ngày xưa thật xưa. Chị Tú hình như cũng cùng tâm trạng với các bạn không còn trẻ của tôi: “Tháng sáu, tôi đến chơi với anh tôi ở Virginia. Cái nóng rịn mồ hôi trên thái dương, và khó ngủ lắm, buổi tối, tôi với anh ra ngồi ở bực thềm, nói chuyện. Tôi bỗng thấy thỉnh thoảng có những chớp nho nhỏ như lân tinh sáng lóe lên rồi lại biến mất trong bụi cây thấp trước mặt, hỏi anh tôi, cái gì thế? “Đom Đóm” Tôi lặng người đi một lúc như nghe thấy ai nhắc tên một người bạn thân cũ, nó làm tôi xúc động. Xúc động một cách rất mơ hồ, chẳng có nguyên nhân gì cả, chỉ là cái tên của một loại côn trùng bé tí được gọi lên. Cái tên nhắc nhở một quê hương xa lắc, một dĩ vãng nằm dưới tấm chăn phủ dầy lớp bụi thời gian. Trong bóng tối, tôi ngắm những cái chấm lửa nhỏ nhoi, lóe lên rồi tắt ngóm với trái tim nôn nao trong ngực. Có đến cả hơn bốn mươi năm tôi không được nhìn thấy những đố
Tọa lạc trong vùng ngoại ô Saint Maur, kề bên là bờ sông Marne hàng hiên ngang cửa nhà chú, chú đổ đầy đất đen đất vụn phải đi mua từng bao ở siêu thị bán cây trồng đất mua chú đổ vào lưng một cái bac ciment rộng lớn chạy ngang hàng hiên nhà. Trong bac chú trồng đầy hoa vàng, hoa nở thì lớn bằng đồng 50 xu, có năm cánh y hệt mai vàng ở Việt Nam, lá xanh non to bằng bàn tay con nít 5, 3 tuổi. Lá cũng rất thưa, hoa rất đẹp, vàng trong như mai ngày tết. Khi nắng gắt, mầu vàng có đậm thêm tí chút, sáng hé nở, trưa ấm nở rộ. Chiều chiều hoa cúp lại ngủ, ngày mai sáng sớm lại mãn khai, thân cây hoa chỉ cao lắm là đến đầu em bé 5, 6 tuổi. Nên hoa và cây không che vướng tầm nhìn từ trong nhà ra ngoài trời. Chú Phương yêu quý những cây hoa đó lắm. Vun tưới thường xuyên. Hỏi tên hoa đó là hoa gì? Chú trả lời ngon ơ: Đó là hoa vông vang của Đỗ Tốn, Chúng tôi không nhớ và cũng không biết ông Đỗ Tốn là ai
Trong sự bồi hồi xúc động, tay bắt mặt mừng, họ được gặp lại để trò chuyện với những người họ hàng thân yêu, những bạn bè xa gần thân thiết, nhìn thấy tận mắt những làng xưa chốn cũ, nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp từ thuở thơ ấu cho đến ngày tạm thời phải rời bỏ những nơi này ra đi, ôi biết bao nhiêu nỗi xúc động trộn lẫn niềm sung sướng vô biên, nói làm sao cho hết được.
Những yếu tố lôi cuốn du khách đi du lịch đến một đất nước bao gồm cảnh đẹp thiên nhiên, văn hóa, thành phố lớn với những lối kiến trúc độc đáo, cuộc sống sôi động, ẩm thực, hoạt động phiêu lưu, kỳ thú ngoài trời, những buổi hòa nhạc, thể thao, nghệ thuật, hay lễ hội, địa điểm hành hương tôn giáo, phương tiện giao thông, vấn đề an ninh và bình yên; trong văn hóa, yếu tố con người chiếm một phần rất lớn khiến du khách khi rời xa, vẫn lưu luyến muốn trở lại lần nữa.
Nếu quý vị độc giả nào đã đọc câu chuyện tình cảm éo le, oan trái tràn đầy nước mắt: "Thằng Cu Tí và Thằng Cu Tèo" và nếu quy vị nào chưa đọc, thì xin hãy mở Google.com sẽ thấy đế tài này thuật lại 2 vị cao niên về thăm VN để hưởng tuần lễ trăng thanh gió mát quê nhà, sau nhiều năm phải rời bỏ quê hương để sống tha hương ngàn trùng xa cách nơi đất khách quê người đi tìm sự tự do. Nay mới có dịp được quay trở về thăm quê cha đất tổ, đồng thời còn được thưởng thức những món ăn đặc sản quê hương
Tôi lắng nghe, ngạc nhiên nhiều hơn thương cảm. Một người như Tầm mà bị lường gạt về lãnh vực 'xương máu' của mình. Tôi có thể hiểu và cảm thông an ủi trong mọi hoàn cảnh đau buồn, thất vọng của người thân chung quanh. Nhưng tôi lại rất vụng về khi phải đề cập đến mọi giao cảm đối với những con số. Tôi không có duyên phận và chung đường với nó. Nên tôi chỉ biết yên lặng, chờ đợi.
Lúc xưa thật xưa, người Việt Nam ta có tục lệ bầy cỗ Trung Thu vào dịp tết trăng tròn tháng 8 âm lịch. Cỗ này thường để dành cho trẻ con, vừa vui Trung Thu, vừa ăn bánh vừa ngắm trăng tròn, sáng tỏ. Thường cỗ này gồm phần lớn là bánh Trung Thu, bánh dẻo bánh nướng và rất nhiều thứ trái cây, trái cây chánh là bưởi, bưởi hồng đào ngọt và tròn xoay như một vầng trăng. Ăn bưởi xong, có thể sâu hột trái bưởi, phơi khô đi sem sém, và có thể đốt hạt bưởi từng sâu như đốt nến, đèn cầy.
Tường Vi sinh ra lớn lên từ miền “quê hương em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo hè thời thiếu cơm”. Trước 1975, ba Vi có chức vụ lớn trong quân đội, làm việc tại Đà Nẵng cuối tuần mới ra Huế. Gia đình Vi ở bên kia bờ Sông Hương nằm trên đường Nguyễn Công Trứ, khu nhà vườn rộng mênh mông có bến sông sau, trước ngõ trồng hàng loạt hoa Tường Vi. Mẹ rất thích loại hoa này, nên đặt tên Vi giống loài hoa. Vi có bốn chị em gồm hai em trai (Vinh, Lộc) và gái út (Tường Như), Vi là chị đầu đàng. Năm 13 tuổi vì thi rớt nên phải học trường tư thục Bồ Đề đến năm lớp tám, ba Vi từ Đà Nẵng dẫn theo người thanh niên về Huế giới thiệu tên Sơn, ra Huế học đại học luật khoa, sẽ dạy kèm chị em, làm gia sư ăn ở trong nhà luôn. Vì tò mò hỏi mạ
Sau này, mỗi khi muốn kết bạn với ai, tôi thường nghĩ về Bi, về lúc Bi cầm tay tôi cho con Nâu ngửi với sự trấn an vô tư của trẻ con thời khó khăn nhất. Chúng tôi không có đồ chơi, không có không gian lớp học năng khiếu, thi tài, không có những cuộc chạy đua đồ đạc mới hay chôm đồ đạc của nhau trong lớp học. Chúng tôi chỉ có bàn tay, con Nâu, đường đất đỏ về nhà và một bờ sông nguy hiểm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.