Hôm nay,  

Mùi của Tết

20/01/202300:00:00(Xem: 3240)
 
mui cua tet
Hình minh họa
 
Hồi còn bé, tôi rất mong ngày Tết. Không phải vì Tết có nhiều món ăn ngon, cũng không phải vì những bộ áo quần mới, cũng chẳng phải Tết có được thêm tiền lì xì. Tôi mong Tết vì cái mùi của Tết. Cái mùi mà bây giờ lên hàng lão tôi khó tìm thấy đủ như những ngày xưa.

Trời đất, thiên nhiên bốn mùa đều có mùi của mùa. Mùa xuân có mùi của cây non trổ lộc, mùi của hương hoa. Mùa hạ có mùi của nắng, mùi của mồ hôi, mùi gió biển và mùi cá khô phơi tràn bãi cát. Mùa thu có mùi của lá vàng, của gió thu lướt trong không khí, mùi của nắng vàng mật ngọt. Mùa đông có mùi của bếp lửa, của bắp nướng, của chén khoai khô ngào đường và mùi của những cơn gió cắt da. Nó còn cái mùi của những chiếc áo ấm cất lâu trong tủ mang ra còn vương mùi long não. 
 
Mùi của Tết khác hẳn, nó không phải là mùi của bốn mùa gộp lại mà nó có mùi rất riêng. Tôi gọi đó là MÙI CỦA TẾT. Mùi này một năm chỉ có một thời gian rất ngắn rồi phai đi chờ đến Tết năm sau.

Trước hết, trong tôi là mùi của hoa. Đó là mùi hăng hắc độc đáo và nồng nàn của những chậu hoa vạn thọ mà Ba tôi rất thích bày khắp sân mỗi dịp Tết về. Những chậu hoa với những bông vàng rực, sáng cả một góc sân. Đó là hương của những cành hoa huệ trắng Mạ ưa cắm trong chiếc bình bằng đồng được đánh bóng sáng ngời đặt trên bàn thờ. Ngay phòng khách mùi hoa lay ơn đỏ Mạ cắm đặt ở bàn salon cũng có mùi nhè nhẹ. Đó là mùi thơm thoang thoảng của những chậu lan khoe sắc trên giàn ở bìa sân do nhiều người biếu Ba trong dịp Tết. Đó cũng là mùi thơm rất mỏng từ chậu mai vàng nhiều cánh nở bung được đặt trang trọng ở giữa nhà. Tất cả hương của những thứ hoa bàng bạc trong nhà báo hiệu đã cận Tết rồi.

Mùi của Tết còn là mùi của nhang, trầm khiến cho căn nhà ấm lại trong cái lạnh đầu xuân. Mùi nhang khói như sợi dây nối liền những người đã khuất với những người đang sống. Mùi để nhớ về, mùi của những cuộc đoàn viên. Cháu con thắp lên cây nhang, đốt lên ánh nến, mẩu trầm rồi vái lạy trước bàn thờ, trước di ảnh của ông bà, cha mẹ. Cái mùi nhang khói ấy theo mãi suốt một đời người.

Đó còn là mùi thơm của thau mứt gừng, mứt dừa, mứt bí, mứt khoai, mứt me Mạ làm. Cái mùi cháy của đường phảng phất mùi va ni cuốn hút thằng bé chực chờ được vét thau. Cái mùi và miếng mứt hơi cháy ở đáy thau theo thằng bé đi suốt cho đến tuổi già. Giờ không mấy nhà tự làm mứt nữa, tiệm, siêu thị bán đầy, chẳng mấy ai mất công ngồi đổ mồ hôi bên bếp lửa. Mạ tôi mất hai chục năm rồi, tôi không còn được thưởng thức món mứt của Mạ và cũng chẳng còn được nhìn dáng Mạ chảy mồ hôi bên nhiều thau mứt nữa. Bóng Mạ vẫn về trong ký ức mỗi độ Tết đến, xuân về.

Tết còn có mùi của các loại bánh in. Ngày xưa Mạ làm đủ loại bánh gói trong những loại giấy bóng màu. Mùi của bánh thơm thơm hương bưởi, hương va ni, mùi của bột. Tất cả đặt trong những chiếc khay gỗ quý khảm xà cừ. Nó còn là mùi của những chén chè đậu xanh, chè khoai tím chứa trong những chiếc chén sứ mỏng tang vẽ rồng men xanh, xếp từng dãy trên bàn. Còn mùi bánh chưng trong thùng sôi sùng sục đêm giao thừa, nó có thoảng nhẹ của mùi nếp chín, mùi của lá chín và mùi chi nữa không tả được và cũng chẳng quên được.


Còn mùi của thịt heo luộc, thịt heo ngày xưa luộc chín có mùi thơm của thịt mà bây giờ khó tìm thấy nữa. Thịt luộc chín ăn đã ngon, ngâm vào nước mắm lại càng ngon. Ngâm đến khi thịt biến màu sẫm, mỡ trong màu hổ phách. Lúc đấy miếng thịt heo ngâm nước mắm lại mang mùi khác. Không phải mùi của thịt jambon, thịt nguội mà là mùi đúng chất Việt Nam bởi nó thấm đẫm mùi nước mắm Việt qua tay chế biến của người phụ nữ Việt. Cũng phải kể đến mùi của món bắp bò ngâm nước mắm nữa. Và cũng không quên tảng thịt heo quay thơm lạ lùng với những mảng da dòn tan. Đó là chưa kể đến mùi thơm của những đòn chả nóng, xâu nem chua, những cây tré đượm mùi riềng.

Rồi đến mùi hăng hăng của kiệu. Phơi một nắng, kiệu bỏ vào lọ giấm lại có mùi khác. Thêm mùi của dưa món, ngâm chín tới mà ăn với bánh chưng, bánh tét mới thấy hết cái ngon của dưa món. Một sự hoà điệu tuyệt vời.

Nó còn là mùi của những bếp than hồng đỏ lửa trên đó có nồi thịt kho tàu với trứng, trên đó có nồi cá kho thơm phức mùi nghệ, trên đó có mùi cá nướng, cá chiên chuẩn bị bữa cúng rước ông bà.

À còn mùi của những loại rau. Rau thơm miền Trung nhỏ lá nhưng thơm hơn nhiều vùng lá to mà tinh dầu kém. Món chi ăn cũng có rau kèm, ngày Tết ăn nhiều dầu mỡ lại càng cần rau.

Ngày xưa còn có mùi pháo. Mùi mang âm hưởng Tết nhiều nhất. Nghe mùi pháo là biết Tết đã tới rất gần. Đêm Giao thừa, trong khoảnh khắc giao thoa giữa cái cũ và cái mới, trong không gian thiêng liêng, mùi pháo, tiếng pháo báo hiệu Tết tới, thể hiện không khí rộn ràng của một năm mới, đón chào những thành công mới. Chỉ tiếc giờ đây Tết không còn pháo. Không tiếng nổ của pháo nên mùi của Tết thiếu đi một nửa khi không còn mùi pháo. Đứa bé ngày xưa chỉ giữ mãi hình ảnh những phong pháo nổ dòn và cậu bé hân hoan lượm pháo lép trong mùi nồng nặc của khói pháo. Tội nghiệp những đứa trẻ được sinh ra và lớn lên khi Tết không còn pháo. Trong ký ức của chúng không có mùi của pháo. Không được nghe những tiếng nổ giòn giã và xác pháo hồng ngập sân.

Mùi của giấy tiền, vàng mã cũng là mùi của Tết dù ngày giỗ chạp cũng thường đốt loại này. Nhưng ngày Tết thì mùi này có khác hơn, đượm mùi thiêng liêng, trân trọng hơn. Lại nhớ Ba mỗi lần đốt vàng mã, Ba bắt phải đốt cháy hết thành tro, Ba bảo không thể cúng cho ông bà áo quần, tiền vàng rách vì chưa cháy hết.

Cuối cùng là mùi của những dĩa trái cây, mỗi loại trái có một mùi riêng, tổng hợp lại thành mùi hoa quả ngày Tết đến.

Mùi của Tết là sự tổng hoà của nhiều mùi mà chỉ có ngày Tết mới có. Nó không chỉ là mùi của những vật phẩm. Nó còn là mùi thiêng liêng đi theo suốt quãng đời của mỗi người. Có thể mỗi gia đình, mỗi dòng tộc có mùi Tết riêng nhưng tựu trung mùi của Tết là mùi khó quên nhưng giờ khó tìm cho đầy đủ cái mùi ấy như những ngày xưa cũ.
 
– Đỗ Duy Ngọc

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau khi đánh bại nhà Hồ vào năm Đinh Hợi (1407), nhà Minh cho bắt hầu hết các tôn thất và quan chức trọng yếu của Hồ triều áp giải về Tàu. Phần lớn những thê thiếp, đày tớ của những gia đình nạn nhân này đã bị nhà Minh đem phân phối cho những quan chức, quân lính có công của họ tùy nhu cầu sử dụng...
Ngày tháng rụng rơi nhanh, quanh qua quẩn lại năm hết tết đến, thời gian lúc cuối cũng chính là thời gian của mùa lễ. Không khí Giáng Sinh rộn ràng từ thôn quê đến thị thành, khắp nơi giăng mắc đèn hoa rực rỡ, phố xá tấp nập khách đi mua sắm, người người tất bật rộn ràng, nhà nhà chuẩn bị đón lễ tết với tất cả sự sung túc mà mình có được...
Mỗi năm, cứ tới ngày 24 tháng 12, trẻ con nao nức chờ ăn Noël. Noël đã trở thành lễ truyền thống, không còn chỉ dành riêng cho người Công giáo, mà cho cả mọi người ngày nay trên khắp thế giới. Ở những nước đang phát triển, Noël lại được đón tiếp tưng bừng hơn...
Lúc Kay còn nằm trong bụng mẹ, bác sĩ đã cho biết em mắc phải nhiều căn bệnh hiểm nghèo, cuộc sống em sẽ rất ngắn ngủi. Cát đau đớn tột cùng, nhưng vẫn quyết định giữ lại con. Việc Cát quyết định giữ lại con là mối bất hòa giữa vợ chồng cô. Anh có lý lẽ của anh. Cát có lý lẽ của Cát. Lý lẽ nào nghe ra cũng hợp lý...
Theo trí nhớ của tôi về quá khứ xa xôi, tôi vẫn nhìn thấy bà hầu tước De Flavigny luôn tươi cười và thanh thản. Bà thường ngồi ở chiếc ghế bành thấp bọc nhung màu vàng nhạt, đầu đội chiếc nón len viền ren, có vài lọn tóc bạch kim lòa xòa trên mặt. Bên cạnh bà luôn có một phụ nữ khác cùng lứa tuổi, ngồi ở chiếc ghế thấp, cũng tươi cười hiền hậu: bà ấy thường được gọi là "Cô Odile". Bà ấy không phải là cô hầu, mà hình như có một mối dây thân mật khiến hai bà là đôi bạn thân; họ thường ngồi đan những chiếc váy lót bằng len để rồi mỗi thứ năm đem tặng cho người nghèo cùng với một mẩu bánh mì và năm đồng tiền hai xeng (liard = 1/4 xu của Pháp thời đó), vừa kể cho nhau những dòng tâm sự không bao giờ cạn.
Hôm trước dự báo thời tiết bảo đêm nay tuyết sẽ rơi liên tục đến sáng, đường phố sẽ có lớp tuyết dày đến 15 xăng ti mét. Tin dự báo thật chính xác. Tôi cố ngủ từ sáu giờ chiều. Đầu ép giữa hai lớp gối bông. Tiếng xe cộ dưới đường vẫn lọt vào giấc ngủ chập chờn. Mười một giờ ba mươi, tôi uể oải chống tay ngồi dậy. Ngủ từ sáu giờ chiều đến mười một rưỡi đêm kể ra cũng đủ. Đã lại khuya nữa. Năm lớp áo, ba lớp quần. Chân ba lớp bí tất. Đôi giầy tuyết quá khổ, để khi luồn bàn chân có ba lớp vớ dầy vào là vừa khít. Nhiệt độ sẽ tụt xuống thật thấp. Ti vi cảnh báo như thế. Hai mươi độ âm. Chiếc xe khậm khoặc mãi mới chịu nổ máy. Khói bay mù trời. Tuyết đang rơi. Từng mảng bông tuyết đậu xuống mặt, lạnh buốt. Tôi ngồi vào xe, chờ cho nóng máy. Tiếng nhạc Giáng sinh luồn lách trong lòng xe như những ngón tay cào cấu tảng không khí keo đặc.
Một đêm đầy sao, lạnh cóng. Một cô bé trằn trọc, quay qua quay lại trên giường, quá bồn chồn để có thể nhắm mắt. Ở trường, chiều nay cô giáo đã kể về ông già Nô En, các chú tuần lộc và chiếc xe trượt tuyết của ông ấy, những món quà ông phân phát cho trẻ em...
Chúng tôi là bạn bè thân thiết suốt ba năm học Trung học, năm nào lớp trưởng cũng tổ chức tiệc Noel cho cả lớp tại nhà của một người nào đó luân phiên nhau. Năm ấy là năm chúng tôi vừa tốt nghiệp ra trường mỗi đứa một nơi, kẻ vào Đại Học, người vào Cao Đẳng, đứa thì đi làm, đứa ở nhà chờ sang năm thi tiếp...
Mùa Giáng Sinh, hai vợ chồng nàng có sứ mệnh đặc biệt: hộ tống thân mẫu chàng và thân phụ nàng về Việt Nam. Đi chung đường bốn người. Nhưng đến Sài Gòn, chia thành hai nhóm. Chồng nàng cùng thân mẫu tá túc nhà người bà con ở quận Mười...
Mỗi khi mùa Giáng Sinh về gia đình chị Bông đều đón mừng vui vẻ nhưng năm nay chị Bông vui nhiều hơn, nao nức nhiều hơn vì hai con sẽ trở về nhà. Thằng lớn Chester tốt nghiệp đại học mới rời khỏi nhà vì nhận việc làm ở thành phố khác và thằng nhỏ Ben cũng vừa mới giã từ mái nhà cha mẹ vào ở dorm khi bắt đầu đại học ở Austin...
Nhiều năm sau, mỗi lần có dịp về lại thành phố, tôi đều tìm cách ghé qua ngôi nhà thờ. Tôi không phải là tín đồ ngoan đạo; đúng ra, mấy chục năm nay, từ khi trưởng thành, đủ lông cánh thoát khỏi tầm kiềm toả của người lớn, tôi chưa bước chân vào nhà thờ lần nào. Tất cả những bài kinh cầu trúc trắc mẹ tôi cố nhồi nhét vào đầu tôi lúc ấu thơ tôi đều quên sạch...
Tôi theo chị tôi đến thăm lão Đính vào một buổi chiều. Đến thăm lão cũng có nghĩa như đến ra mắt một người "có danh" ở địa phương, vì tôi là người lạ mới đến xứ này. Trong hai ngày đầu ở nhà chị tôi, tôi đã nghe nhiều người nói chuyện về lão. Qua lời họ, tôi hình dung lão là một người khí khái nhưng cũng gàn gàn. Lão rất ghét và sẵn sàng chửi tạt thẳng mặt những kẻ tà nịnh. Lão luôn bênh vực kẻ yếu và không hề biết nể nang ai...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.