Hôm nay,  

Chàng Lười và Chiếc Mũ Ba Cạnh (Lazy Peter and His Three Cornered Hat)

13/09/202110:05:00(Xem: 3220)

Do Ricardo E. Alegria kể lại

Đôi lời giới thiệu: Chuyện lừa đảo không phải chỉ mới đây mà đã có từ ngàn xưa. Bị lừa có thể do khờ khạo, thiếu kinh nghiệm, ngay tình…nhưng nguyên do chính của “mắc lừa” là lòng Tham. Tại Hoa Kỳ, chuyện lửa đảo diễn ra từng ngày và có thể nhanh hơn thế nữa cho nên các nhà quan sát nói rằng Tại Hoa Kỳ cứ mỗi phút lại có thêm một thằng khờ  tức cứ mỗi phút lại có thểm một kẻ bị lừa đảo. Cho vay với lãi thật cao, đầu tư lời nhiều và nhanh chóng, công ăn việc làm với lương hậu mà không đòi hỏi bằng cấp, kỹ năng gì cả. Rồi biếu không đất xây chùa rất đẹp ở Đà Lạt, không đòi hỏi gì cả mà chỉ cần chút đỉnh lo giấy tờ sang tên (theo lời kể của TT. Thích Chân Tính Chùa Hoằng Pháp). Việt kiều từ Mỹ về chơi rất bảnh, lỡ kẹt tiền mượn chút ít hứa trả ngay nhưng sau đó biến mất. Cũng Việt kiều từ Mỹ về với dự án đầu tư làm ăn “chắc như bắp” sau đó mới biết “dự án ma”.  Việt kiều dỏm, tình yêu…nhất là tình yêu say đắm mù quáng là điều kiện lường gạt dễ dàng nhất. Ham thích đi Mỹ cũng khiến nhiều cô, nhiều bà cười đau khóc hận trong tình trường. Rồi bao nhiêu “dự án xây dựng ma” ở trong nước mua nhà, mua đất đầu tư làm giàu mau chóng khiến bao người cười đau khóc hận.

            Chính lòng Tham, lòng Si Mê khiến chúng ta “tối mắt” không còn phân biệt được thế nào là hợp lý, có thực hay không thực. Do đó để không bị mắc lừa trước hết phải diệt trừ lòng Tham. Một bậc tu hành công phu, một đại trí thức, một kẻ kinh nghiệm đời …vẫn có thể mắc lừa như thường nếu còn lòng Tham. 

            Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây dù chỉ là vui chơi nhưng giúp chúng ta cảnh giác rất nhiều về “tính Tham” nằm sâu trong tạng thức chúng ta. Nó không chỉ khiến chúng ta “mắc lừa” mà còn tạo ra nhiều thảm họa cho chính chúng ta và cho người khác nữa.

Đào Văn Bình

(Dịch ra Việt Ngữ và giới thiệu)

 

Một ngày nọ Chàng Lười Peter hay biết có một ngôi làng đang tổ chức hội chợ. Chàng ta biết chắc rằng nhiều dân quê sẽ tới đây để bán ngựa, bò và những gia súc khác và thế nào họ cũng có nhiều tiền. Mặc dù rất cần tiền nhưng chàng ta có thói xấu là không chịu làm việc để kiếm tiền. Chàng ta, đầu đội chiếc mũ đỏ ba cạnh, tìm cách mò đến ngôi làng.

Thoạt tiên, Chàng Lười tiến tới một cái quầy, đưa một túi tiền cho người chủ rồi nhờ ông ta giữ giùm cho đến khi nào chàng ta quay lại lấy. Peter nói rằng để cho người chủ dễ nhận diện, chàng ta sẽ quay trở lại với chiếc mũ bẻ cụp xuống. Người chủ hứa sẽ làm theo lời Peter.

Sau khi nói lời cảm ơn, Chàng Lười đi tới nhà ông thầy thuốc, đưa cho người chủ một túi tiền khác, nhờ ông ta giữ dùm và nói sẽ quay trở lại với chiếc mũ có một cạnh bẻ lên. Ông chủ tiệm thuốc đồng ý. Sau đó Chàng Lười Peter lại đi tới nhà thờ nhờ một linh mục giữ dùm một túi tiền khác và nhờ linh mục trao lại khi nào chàng ta quay trở về với cái mũ có một cạnh bị vặn chéo.

Sau khi đã nhờ ba người giữ dùm ba túi tiền, Peter đi tới bìa làng là nơi các người nông dân đang trao đổi, bán buôn. Chàng Lười dừng lại và quan sát để nhận diện một trong những người nhà quê có nhiều tiền nhất vì ông ta đã bán hết cả bò lẫn ngựa. Và đây cũng là người rất keo kiệt chẳng bao giờ hài lòng với những gì mình đang có và lúc nào cũng muốn kiếm thêm thật nhiều tiền. Đó chính là con mồi của Peter. Lúc này trời đang mưa, thay vì đội mũ để che mưa, chàng ta gói chiếc mũ cẩn thận trong chiếc áo choàng như thể đây là món đồ quý giá lắm.

Người nhà quê hết sức ngạc nhiên khi thấy Peter đứng dưới mưa mà lại ôm chiếc mũ gói trong chiếc áo  choàng. Sau một lúc quan sát người nhà quê hỏi:

-Tại sao cậu lại quý cái mũ hơn cái đầu của cậu?

            Peter thấy “Cá đã cắn câu”. Chàng ta cười thầm trong  bụng rồi nói rằng mình có món đồ quý giá nhất trên đời cho nên cần phải  bảo vệ không cho mưa làm ướt. Câu trả lời làm cho người nhà quê càng tò mò thêm cho nên ông ta yêu cầu chàng Peter giải thích rõ xem chiếc mũ ba cạnh có gì quý giá. Peter nói rằng chiếc mũ này làm ra tiền cho chàng. Chàng biết ơn nó vô cùng vì chẳng cần làm việc gì cả mà chỉ cần đội chiếc mũ này lên với một cạnh bẻ lên thì người ta sẽ bỏ tiền vào đó tùy thích. Vì người nhà quê có tham vọng kiếm thật nhiều tiền cho nên ông ta nói với Peter rằng ông ta chẳng thể tin nếu sự việc không diễn ra trước mắt. Chàng Lười Peter hứa chắc với ông nhà quê điều này chẳng có gì khó. Nói xong chàng Peter đội chiếc mũ lên đầu có bẻ một cạnh rồi nói người nhà quê đi theo để xem chiếc mũ kiếm tiền như thế nào. Peter đưa người nhà quê tới chiếc quầy. Khi thấy Peter đội chiếc mũ như đã giao ước, người chủ giao cho chàng một túi tiền mà Peter đã gửi trước. Người nhà quê đứng há hốc miệng vì ngạc nhiên. Ông ta không hiểu tại sao nhưng có điều chắc chắn là ông ta rất thích chiếc mũ này.

            Peter mỉm cười hỏi xem người nhà quê có hài lòng không? Người nhà quê trong bụng thật thích thú cho nên lên tiếng hỏi Peter có muốn bán chiếc mũ không. Peter như mở cờ trong bụng nhưng giả vờ nói rằng chàng không có ý bán chiếc mũ đó vì với chiếc mũ này chàng chẳng phải làm việc mà lúc nào cũng có tiền. Người nhà quê nói rằng đó là lối suy nghĩ không đúng vì kẻ gian có thể đánh cắp chiếc mũ. Nếu như để một chủ trại có nhiều trâu bò giữ chiếc mũ thì đó có phải là điều an toàn hơn không? Thế là hai bên bắt đầu thảo luận. Peter giả bộ cảm động về những gì người nhà quê nói. Cuối cùng Chàng Lười nói rằng nếu người nhà quê trả giá đúng mức thì chàng ta có thể bán. Vì người nhà quê đã quyết định mua chiếc mũ băng mọi giá cho nên ông ta trả 1000 đồng pesos. Thấy vậy Chàng Lười bật cười nói rằng anh ta có thể kiếm được số tiền đó mà chỉ cần đội chiếc mũ lên đầu hai, ba lần mà thôi.

            Trong lúc hai bên còn cò kè thì người nhà quê càng nóng lòng muốn mua chiếc mũ. Cuối cùng ông ta đề nghị trả mười ngàn đồng vàng pesos là tất cả số tiền bán ngựa và bò. Chàng Lười ta vẫn còn giả bộ như chưa muốn bán nhưng trong bụng cười thầm vì người nhà quê đã trúng kế. Cuối cùng chàng ta nói:

-Thôi được rồi. Tôi chịu bán với giá đó.

            Vì muốn cho chắc ăn, người nhà quê đề nghị trước khi trao mười ngàn đồng tiền vàng, ông ta muốn xem chiếc mũ có linh nghiệm không. Chàng Lười nói rằng điều đó cũng đúng thôi. Nói xong, chàng ta đội chiếc mũ với một cạnh bẻ lên rồi cùng người nhà quê đi tới tiệm thuốc. Thấy Peter đội chiếc mũ đúng như hẹn ước, người chủ tiệm liền trao túi tiền cho Peter. Thấy vậy người nhà quê thật vững tin và háo hức muốn có cái mũ để chính ông ta thử xem. Ông ta móc ra một cái túi đựng mười ngàn đồng tiền vàng và định giao cho Peter nhưng chợt dừng lại. Sau đó ông ta nói rằng ông buộc lòng phải xin lỗi vì ông ta muốn xem cái túi thật linh nghiệm một lần nữa trước khi trao túi tiền. Chàng Lười nói rằng điều đó cũng đúng, nhưng lần này chàng ta đòi người nhà quê phải đưa thêm cho anh ta con ngựa quý nữa. Người nhà quên nói rằng để ông ta suy nghĩ lại xem.

            Chàng Lười Peter đội chiếc mũ lên rồi vặn chéo một góc. Chàng ta nói với người nhà quê rằng vì ông ta còn nghi ngờ cho nên lần này chàng sẽ biểu diễn tại một nhà thờ cho ông ta coi. Nghe nói vậy người nhà quê mừng ra mặt và mọi nghi ngờ đều tiêu tan. Trong bụng ông ta hớn hở khi nghĩ tới số tiền mà ông ta sẽ kiếm được.

            Hai người bước vào nhà thờ. Lúc này ông linh mục đang nghe người ta xưng tội nhưng khi thấy Peter đội chiếc mũ như ước hẹn, ông linh mục nói:

-Chờ đây.

            Nói xong ông ta đi vào chỗ để đồ thờ rồi quay ra giao túi tiền cho Peter. Peter nói lời cám ơn rồi quỳ xuống xin cha ban phước lành cho trước khi rời nhà thờ. Trước sự kiện đó người nhà quê hoàn toàn tin tưởng vào sự linh nghiệm của chiếc mũ. Ngay khi ra khỏi nhà thờ, ông ta trao túi tiền mười ngàn pesos và cả con ngựa cho Chàng Lười. Peter cột túi tiền vào yên ngựa, trao cái mũ cho người nhà quê và dặn ông ta phải giữ gìn cẩn thận cái mũ. Nói xong Peter thúc ngựa rồi phóng như bay ra khỏi thành phố.

            Còn lại một mình, người nhà quê phá lên cười khi nghĩ tới việc mình đã đánh lừa được Chàng Lười vì chiếc mũ là vật vô giá. Không thể chờ đợi hơn nữa, người nhà quê đội chiếc mũ với một góc bẻ lên rồi bước vào quầy bán thịt. Người bán thịt nhìn chiếc mũ, chiếc mũ quả rất đẹp nhưng không nói năng gì cả. Người nhà quê quay một vòng, bước tới bước lui cho đến khi người bán thịt hỏi ông ta muốn gì? Người nhà quê nói rằng ông ta đang chờ túi tiền đây. Nghe vậy người bán thịt cười lớn rồi hỏi liệu ông ta có điên không? Thấy vậy người nhà quê nghĩ rằng có thể mình đội chiếc mũ không đúng cách cho nên vội vã lấy chiếc mũ xuống và gấp thêm một cạnh nữa. Nhưng dù làm như vậy nhưng chiếc mũ cũng chẳng có tác dụng gì cho nên ông ta quyết định đi tới nơi khác để thử xem. Ông ta đi tới nơi làm việc của quan tổng quản. Quan tổng quản nhìn chiếc mũ nhưng cũng chẳng nói năng gì. Người nhà quê chán nản và quyết định đi tới nhà người bán thuốc là người đã trao túi tiền cho Peter. Ông ta bước vào và đội chiếc mũ lên nhưng người bán thuốc cũng chỉ đưa mắt nhìn và chẳng nói năng gì. Người nhà quê nghĩ rằng có điều gì quái lạ ở bên trong cho nên ông ta quát lớn:

-Ngừng ta lại và đưa túi tiền đây!

            Người bán thuốc nói rằng ông ta chẳng nợ nần ai cả và túi tiền người nhà quê đòi hỏi là cái gì? Khi người nhà quê vẫn tiếp tục quát tháo thì người bán thuốc cho người nhà đi báo quan trên. Khi lính tráng kéo tới thì người bán thuốc nói rằng người nhà quê đã mất trí cho nên cứ nằng nặc đòi tiền ông ta. Khi bị cật vấn, người nhà quê khai ra chiếc mũ thần mà ông ta đã mua của Chàng Lười. Khi nghe xong câu chuyện, người bán thuốc nói rằng Chàng Lười đã nhờ ông giữ dùm túi tiền rồi quay trở lại lấy với cái mũ có một góc bẻ lên. Rồi ông chủ hàng thịt và ông linh mục cũng nói như vậy.

            Tới đây thì bạn đọc cũng đã biết người nhà quê đau khổ dường nào. Ông ta xé nát chiếc mũ rồi lủi thủi đi bộ về nhà vì ngựa cũng chẳng còn./.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lúc tôi đậu thanh lọc, được chuyển từ trại “cấm” sang trại tự do, tinh thần vui vẻ, tôi không có ý định tiếp tục công việc ở post office mà muốn thử công việc mới, làm thiện nguyện 3 jobs không hề mệt mỏi . Sáng sớm dạy lớp English Vỡ Lòng cho người lớn tuổi tại trường ESL, sau đó chạy “show” qua trường Việt Ngữ dạy Tiếng Việt cho các em nhỏ, và thời gian còn lại trong ngày làm việc là dành cho Văn Phòng Cao Ủy Định Cư.
Tôi đang đổ xăng, bỗng có người thanh niên tiến đến nên tôi cảnh giác xem anh ta muốn gì? Anh ấy không có thái độ gây hấn hay gì hết, ngược lại là nụ cười xã giao dễ mến và và hành lễ khoanh tay là điều đã hiếm thấy ở giới trẻ Việt trên nước Mỹ bây giờ.
Nhân tuần lễ kỷ niệm 49 ngày Khánh Trường rời cuộc thế gian, tờ Ngôn Ngữ số đặc biệt tháng Hai dành trọn số báo tưởng niệm người họa sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà báo tài hoa Khánh Trường, do nhà thơ Luân Hoán và bạn hữu nhóm Ngôn Ngữ ưu ái thực hiện. Mời đọc bài viết của Trần Yên Hòa trích nhà phê bình văn học Thụy Khuê như một nén nhang tưởng nhớ người họa sĩ/nhà văn tài hoa.
Có thể nói cuộc đời của những du học sinh thời VNCH như tôi trải qua khá nhiều truân chuyên từ dạo ấy, sau tháng Tư đen 1975, từ khi cộng sản Bắc Việt thống trị Nam Việt Nam. Khác với quyết định đi tìm Tự Do, đi tìm sự sống trên cái chết qua hình thức vượt biên vượt biển của đồng hương sau 1975, chúng tôi may mắn hơn, đơn thuần chỉ phải chọn lựa một trong hai: về Việt Nam hay ở lại nước ngoài. Nếu quyết định về VN thì phải cúi đầu phục tùng nhóm sinh viên đoàn kết và toà đại sứ Việt Cộng. Còn ngược lại nếu quyết định ở lại nước ngoài thì phải chấp nhận xa quê hương, xa gia đình, bạn bè anh em và không biết khi nào mới gặp lại!
Văn hóa phương Tây, rắn vừa là biểu tượng trong lĩnh vực y khoa vừa là nguồn cảm hứng trong hội họa, kiến trúc và văn học. Văn hóa Hy Lạp bắt nguồn từ vị thần cổ đại Hermes, sứ giả của các vị thần. Thần Esculape được coi là ông tổ của ngành y dược. Biểu tượng của Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO (World Health Organization) con rắn quấn quanh cây gậy Esculape cầm. Cục Quân Y VNCH có thêm đôi cánh trên thanh kiếm.
Hồi năm sáu tuổi tôi vẫn hay theo chúng bạn ra chơi trước đình làng Thanh Thủy. Nơi đó có mấy cây sanh cổ thụ rất lớn luôn tỏa bóng râm mát mẻ cả đoạn đường bến chạy qua làng. Bên kia con đường bến là hồ Vọng Nguyệt, một cái hồ trông như vuông vức, rộng chừng nửa mẫu tây, dân địa phương vẫn quen gọi là hồ làng...
Phải chi khách đến thăm vườn hồng hơn trăm giống quý đủ màu sắc của ông Chu hằng ngày là khách mua hoa thì chắc thu nhập của gia đình ông đỡ hơn. Ông nghèo, nhưng cái máu nghệ sĩ của ông lại mạnh mẽ hơn chuyện tiền bạc, lại gặp bà vợ hết mực chiều chồng, nên cứ nghe đâu có giống hồng lạ là bằng mọi cách phải có cho bằng được. Năm ba ký gạo đắp đổi hằng ngày đã khó, mà có những giống người ta đổi cả tấn lúa ông cũng lắc đầu.
Không nhớ từ bao giờ đã không còn ngồi xuống bàn trà, tay bốc miếng mứt hạt sen bỏ vô miệng, vị ngọt tươm ra không quá gắt như ăn miếng mứt bí, vị ngọt nhẹ, thanh, kích thích vị giác bởi hương sen quyện ngọt điệu đà, tới khi nhai cái hạt sen đã ấm ấm trong miệng nên không còn cứng cũng không quá mềm như khoai lang luộc. Độ dẻo của hạt sen khi đã sên mứt rất mê hoặc và cũng đâu có gì vội để nuốt đi cho mau, cứ ngậm mà nghe hương vị đất trời tinh khiết của hương sen xông lên khoang mũi làm cho người thưởng thức lâng lâng cảm giác xuân đã về. Có thể nói món gì có hạt sen góp mặt cũng ngon như món vịt tiềm có nhân bên trong là thịt bằm, nấm mèo, táo tàu, gia vị nhiều thứ, nhưng những hạt sen luôn khêu gợi những đôi đũa gắp vì hấp dẫn và ngon lạ miệng. Nhưng đã nhiều năm không ăn mứt hạt sen sao vẫn nhớ khá rõ hương vị độc đáo của hạt sen trong món ngọt ăn chơi ngày tết, hay món mặn ăn tiệc đều ngon.
Cậu Hà người Bắc di cư năm 1954, cậu di cư có một thân một mình khi còn trẻ, nên cậu cũng không có nhiều phương tiện được học hành nhiều. Khi lớn lên ở miền Nam, lối chừng 19, 20 tuổi khoảng năm 1965-1966, cậu từ giã học đường đăng lính, cậu đi lính Việt Nam Cộng Hòa ngành Biệt Động Quân. Sau chuyển qua Thám Báo. Cậu đóng quân như ở miền đồng ruộng, lúc bấy giờ còn loáng thoáng xa xa, ít dân cư, tiếp giáp một bên Đồng Ông Cộ, miệt Gò Vấp, Gia Định.
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.