Hôm nay,  

Ghè Gốm Gò Chàm

30/04/202114:06:00(Xem: 3916)
VANG HOI
Vàng Hời.(hình minh họa - nguồn: https://kenh14.vn)

Thằng Đẹn lùa bò về đến sân, giọng hấp tấp

- Má, ba đâu?

Bà Tư Đàm, má Đẹn đang ngồi nhổ cải non sẵng giọng

- Gì mà hóng hớt vậy Đẹn? Ổng mới tưới nước mấy giồng rau đây, hổng biết đi đâu nữa? Hổng chừng ổng đan lợp ở sân cát!

Đẹn không trả lời bà Tư Đàm mà chạy tọt vào nhà, đến sân cát 

- Ba, con mới thấy một mạch đá ong đỏ chót và dài lắm. Con cào cào sơ lớp đất mặt và vạch bụi cây cùm rụm là lộ thiên.

Ông Thảnh tỏ vẻ hoài nghi

- Mầy nói giỡn hay nói chơi? Tao thả bò ở gò Chàm từ hồi mười tuổi, có bao giờ thấy đá ong ở đó đâu!

- Thiệt mà ba, con đâu có giỡn, con thấy tận mắt đá ong đỏ roi rói luôn.

Ông Thảnh buông cái lợp đang dở xuống, đứng dậy ra sân vác cây xà beng rồi bảo Đẹn

- Mầy dắt tao ra đó xem thử, đá ong chỗ nào?

Đẹn lấp sấp đi trước, miệng huyên thuyên không ngớt về sự phát hiện mạch đá ong. Nó có vẻ tự hào như là một phát kiến lớn, mà không chừng lớn thiệt. Dân quanh vùng bao đời nay có ai thấy đá ong ở gò Chàm bao giờ. 

Gò Chàm nằm sau lưng chùa Ngọc Thạnh, rộng mênh mông, ùm tùm bụi lùm dú dẻ, dành dành, cơm nguội… nhưng nhiều nhất vẫn là cây xương rồng. Xương rồng gò Chàm trông giống như cái vợt ping pong, lại như cái quạt nan, gai tua tủa. Xương rồng ngỡ vô dụng nhưng sau khi trảy hết gai có thể cho bò ăn, nhìn xương rồng ai cũng ngỡ khô cằn nhưng nào ngờ lại mọng nước. Nó chắt chiu nước từ đất gò, ngậm sương đêm để hút nước vào thân, uống những giọt nước mưa ít ỏi để tích tụ mà duy trì sự sống, cuộc sống rất khô khan ở cái vùng đầy nắng gió này. Xương rồng như những cư dân ở đây, luôn phòng thủ và để giành. Xương rồng trông gai góc khó gần, khó ưa nhưng lại nở những bông hoa đỏ hoặc vàng khá đẹp mắt, trái của nó chua chua ngọt vị giống như thanh long và kiwi. Có ai đó bảo rằng, thanh long cũng là họ của xương rồng mà thôi! Gò Chàm đầy xương rồng, nơi thả bò của dân làng Ngọc Thạnh, An Sơn, Quy Hội… Thằng Đẹn kéo tay ông Thảnh lại gần bụi cùm rụm mà nó vạch lúc sáng. Ông Thảnh dùng xà beng xắn mấy gốc cùm rụm, dú dẻ giạt ra, nền đá ong thấy rõ ràng. Ông cào đến đâu thì đá ong lộ ra đến đó, tiếp tục cào và lẩm bẩm

- Cái vỉa đá ong này lớn lắm, trúng mánh rồi con ơi!

Sáng sớm hôm sau, ông Thảnh, thằng Đẹn cùng anh Bảy Thạch, anh Tám Tòng kéo ra gò Chàm chẻ đá. Đục đá ong để bán vốn là nghề lâu nay của làng Ngọc Thạnh, đá ong dùng để xây móng, xây tường, xây chuồng heo...Những giếng nước bọc đá ong, nước trong vắt và uống ngọt hơn giếng bộng xi măng. Những viên đá ong hình chữ nhật, dài cỡ ba gang tay, dày một gang tay, được đẽo bằng mũi de và búa. Suốt ngày hôm đó, nhóm ông Thảnh đẽo được năm mươi viên đá ong. Ông Thảnh nói chưa khi nào đục đá ong dễ như thế! Vỉa đá ong gần như lộ thiên, bề ngang chừng mười thước, còn chiều dài và độ sâu thì chưa biết bao nhiêu, chỉ ước chừng rất dài và sâu.

Tháng rồi ông Thảnh sắm được hai chỉ vàng, sau khi trả công thợ và những chi phí cho việc đẽo đá ong. Mấy nhóm thợ các làng khác hay tin nên bắt đầu đổ về gò Chàm. Gò Chàm tịch mịch vắng vẻ bao đời nay, giờ xôn xao như một công trường. Nhóm thợ Bảy Thao, Chín Tửng… đua nhau xí phần, tiếng đục đẽo đá chí chát đập vỡ sự tĩnh mịch gò Chàm. Giấc xế, nghỉ tay uống nước ăn vặt, Hai Thảnh nói

- Mình làm đầy chuyến xe bò này nữa rồi nghỉ, hôm nay coi như đủ sở hụi!

Lúc mọi người nghỉ giải lao, thằng Đẹn đi loanh quanh lục lạo tìm kiếm xung quanh. Tánh Đẹn hồi nào đến giờ vẫn vậy, thích tò mò, sục xạo, cái gì ngộ ngộ là nó tìm hiểu cho ra lẽ mới thôi! Đột nhiên nó quỳ trên mặt đất, hai tay cào bới quanh cái miệng tròn tròn, có lẽ cái ghè hay cái hũ chi đó. Sau khi biết chắc là cái ghè, Đẹn kêu toáng lên

- Ba ơi, lại đây coi cái này nè!

Ông Thảnh quở

- Cái thằng tánh như con nít, việc gì mà um sùm vậy Đẹn?

Nói thì nói nhưng Hai Thảnh cũng đi đến chỗ thằng Đẹn, nhìn thấy cái ghè bằng đất nung nửa chìm nửa lộ từ mặt đất. Ông Thảnh giật mình, linh tính cho biết đây không phải là chuyện tầm phào, Ông ngồi xuống lấy tay bụm miệng thằng Đẹn, thì thầm

- Đừng la lớn kẻo người ta biết!

Ông Thảnh moi thêm một tí nữa là lôi được cái ghè lên, không biết nó nằm trong đất bao lâu mà màu gốm vẫn đỏ au như mới nung, cái nùi bịt miệng ghè hổng biết bằng gì, vừa giống như gỗ lại giồng như vải nhưng đã hóa thạch cứng như cục san hô. Hai Thảnh cố gỡ nhưng hết sức cẩn thận vì sợ bể cái ghè, tuy khó nhưng cuối cùng cũng gỡ được, nghiêng ghè trút ra mặt đất thì thấy rơi ra nào là nhẫn, chuyền, cà rá, những tấm vàng lá dập nổi… Hai Thảnh lập tức hốt hết bỏ vô trở lại và bảo Đẹn ngồi đó giữ cái ghè. Đoạn ông đem xe bò lại, lấy cái ghè giấu vào giữa những viên đá ong, ông nói với Bảy Thạnh và Tám Tòng

- Tự dưng tui đau bụng quá, nay nghỉ sớm, bữa khác làm bù!

Mấy anh thợ tỏ vẻ không bằng lòng, Hai Thảnh biết ý liền nói

- Mấy anh em đừng lo, tui trả đủ công ngày hôm nay!

Nghe thế mấy anh thợ đá vui vẻ ngay, về đến nhà Hai Thảnh bưng cái ghè vào buồng riêng, sau khi đã đóng hết cửa lại. Ông trút ra sàn nhà, hai vợ chồng sáng mắt tươi hẳn lên, bao  nhiêu là vàng, đặc biệt nhất là những chùm cau và tượng thần  chi đó. Hai vợ chồng căn vặn thằng thằng Đẹn

- Đừng nói cho ai biết, họ mà biết thì mình chết đó!

Từ hôm đó, ông Thảnh không đi đục đá ong nữa, mấy người thợ làm chung ngạc nhiên lắm, đang làm ăn ngon lành bỗng dưng bỏ ngang. Bảy Thạnh đến hỏi thì Hai Thảnh trả lời

- Đá ong này tui nghi của người Hời, đục đẽo nhiều sợ bị vật, nếu lỡ trúng bùa yểm thì chết!

Bảy Thạnh không nói gì thêm, lòng đầy ngờ vực, dợm chân quay đi, ra đến cửa nghĩ sao ngoái cổ lại hỏi một câu

- Có phải bữa nọ anh được vàng?

Hai Thảnh giật mình nhưng lẹ làng đáp

- Trời đất, vàng ở đâu mà được chú Bảy?”

Bảy Thạnh cười nhếch mép

- Người ta nói vàng Hời bị yểm linh lắm đó!

Từ ngày nghỉ đẽo đá ong, nhà Hai Thảnh tự dưng phất lên. Hai Thảnh cho dỡ căn nhà cũ cất lại nhà mới, đúc năm tấm luôn. Hai thảnh còn mua mấy lô đất mặt tiền ngoài lộ mà mỗi lô nghe nói trên tỉ bạc. Mấy đứa con gái có chồng làng bên cũng được Hai Thảnh cho tiền nên bỗng nhiên sửa soạn se sua chưng diện, lái xe tay ga chạy rông rông khắp nơi. Thằng Đẹn không còn chăn bò nữa, giờ nó sáng sáng ra ngồi quán cà phê, xế chiều nhậu tới bến, tối đi karaoke… Tiếng đồn Hai Thảnh được vàng Hời lan xa khắp nơi. Người ta đoán già đoán non về số vàng Hai Thảnh được, tuy nhiều lời đồn khác nhau nhưng chung quy ai cũng tin chắc là Hai Thảnh được vàng Hời, Có người còn lý luận:” Không được vàng cớ sao Hai Thảnh cúng chùa Ngọc Thạnh trăm triệu, cúng Đình Vân Hội trăm triệu?  Không được vàng Hời sao Hai Thảnh rước đoàn hát bội về đình Luật Lễ cúng tạ, hát miễn phí suốt ba đêm liền? Ấy là chưa nói Hai Thảnh sắm lễ vật thịnh soạn ra tháp Bánh Ít cúng tạ mấy ngày liền”

 Ba lâm, Sáu Sự, Bảy Thạnh, Chín Cửu… quất hết hai lít bầu đá, người nào cũng sần sần hết trơn. Bảy Thạnh lè nhè 

- Tui đi đẽo đá ong với ổng được mấy tháng, một hôm bỗng dưng ổng nói đau bụng rồi hai cha con bỏ về, từ đó bỏ nghề luôn, từ đó bỗng dưng phất lên giàu dễ sợ. Ổng thì cất nhà năm tấm, con cái ăn diện chơi bời, mua xe, mua đất...thử hỏi tiền ở đâu? Bữa ổng bỏ về tui hổng có nghi ngờ gì ráo trọi, sau này liên kết nhiều việc lại thì tui mới vỡ lẽ ra là chả được vàng Hời.

Tiếng bàn tán um sùm của bạn nhậu. Sáu Sự chêm vào

- Khi ba tui còn sống, tui thường nghe ổng kể chuyện có người thỉnh thoảng được vàng Hời. Bà trùm Mễ được con ngỗng vàng, ông Tư Đẩu được chùm cau vàng…

Chín Cửu khề khà

- Tui cũng nghe tía tui kể chuyện gò Chàm, ổng nói mấy cái gò quanh đây đều thuộc về người Chàm ngày xưa. Mấy mả Hời có nhiều vàng và đồ cổ nên bị bọn trộm đào phá chanh bành.

Một lát sau Bảy Thạnh nói thêm

- Hai Thảnh được vàng Hời mà hổng biết điều, chơi hổng đẹp. Được vàng thì cũng chia cho anh em chút ít lấy thảo, đằng này ăn hết một mình. Người ta nói vàng Hời bị yểm nên linh lắm, được vàng mà không biết giải dễ bị vật như chơi!

Kế đến thiên hạ đồn râm ran khắp nơi, nhóm thợ đá làng Lộc Thọ xóm Cối Đá đào được tượng thần Shiva bằng vàng, bán được tỉ rưỡi bạc chia nhau nên giờ bỏ nghề hết rồi. Tiếng đồn đâu sai, bọn buôn đồ cổ lảng vảng quanh các xóm ở gò Chàm dọ hỏi mua đồ cổ. Chính quyền sở tại bắt đầu chú ý đến gò Chàm và những người có liên quan, quận đã cử người về tra hỏi vụ việc. Sở cũng cử chuyên viên khảo cổ về gò Chàm. Báo chí truyền thông lập tức nhảy vào đưa tin, khổ nổi một đồn trăm, bọn báo chí và mạng truyền thông tha hồ thêm thoắt thêu dệt vô số chuyện ly kỳ để câu khách.

Buổi tối nhà Hai Thảnh đèn neon sáng trưng, ti vi màn hình mỏng đời mới ra rả tin tức nóng bỏng về gò Chàm. Hai Thảnh và vợ thích thú thấy cảnh gò Chàm của quê mình được lên ti vi. Chương trình thời sự phát cảnh phỏng vấn giáo sư Dương Hồng Sinh. Giáo sư đưa ra kết quả sơ bộ cuộc điền dã gò Chàm

“ Chúng tôi đã khảo sát vỉa đá ong gò Chàm, đồng thời đào thám sát nhiều hố chung quanh. Sơ bộ chúng tôi nhận thấy vỉa đá ong dày mười mét sâu năm mét, còn độ dài thì chúng tôi chưa có số liệu chính xác. Sở dĩ vỉa đá ong lộ ra là do tháng năm mưa nắng bào mòn lớp đất mặt, móng chân thành này có lẽ bị vùi lấp từ sau thế kỷ mươi ba, khi mà kinh thành Vijaya bị triệt hạ. Tòa thành này cùng chung số phận như những tòa thành khác.  Đòan khảo cổ chúng tôi còn thu được rất nhiều hiện vật có giá trị lớn về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật như: ghè gốm, thống gốm, tượng chim thần Garuda, đặc biệt một tượng thần Vishnu vô cùng tinh xảo. Chúng tôi tạm kết luận vỉa đá ong gò Chàm vốn là một đoạn móng của một tường thành thuộc vương quốc Champa cổ xưa, có thể đây là một tiền cung của vua Chiêm, bởi vì từ gò Chàm đến kinh đô Vijaya không xa mấy. Chúng tôi tiếp tục khảo sát, làm đến đâu công bố kết quả đến đấy, sau khi kết thúc thì làm báo cáo  khoa học trình lên chính phủ. Điều đáng tiếc là cư dân quanh vùng không hiểu giá trị của di tích khảo cổ qúy giá này. Họ đục đẽo lấy đá ong về xây tường rào, làm giếng nước, thậm chí xây chuồng heo… Họ vô tình phá hoại di chỉ độc đáo quý giá này. Một số kẻ trộm cắp đào bới để tìm cổ vật, họ chỉ biết giá trị tiền của cổ vật mà không biết gì giá trị thẩm mỹ, nghệ thuật của cổ vật! Mong sao chính quyền ra tay bảo vệ di tích lịch sử độc đáo của quốc gia!” 

Cả ông Hai Thảnh và bà Tư Đàm đều giật mình nhìn nhau, tuy không nói ra nhưng hai ông bà đều có cùng suy nghĩ và nỗi lo lắng. Bà Tư Đàm lặng lẽ bỏ vào buồn nằm, ông Hai Thảnh với tay lấy điều khiển tắt ti vi, ông ngồi trầm ngâm và liên tục đốt thuốc, cái gạt tàn đầy ắp mẩu thừa và tro của điếu thuốc, lòng ông Hai Thảnh thì ngổn ngang những nỗi lo mơ hồ từ mấy ngày qua.

Sáng hôm sau mấy quán cà phê của trấn Phù Dung quanh gò Chàm xôn xao hẳn lên. Những nhóm thanh niên ngồi đồng ở quán bàn tán chuyện đồ cố gò Chàm. Người các làng thấy chính quyền cắm bảng cấm đào bới gò Chàm. Nhiều người còn khẳng định “ Rồi đây bọn mua bán cổ vật gò Chàm sẽ bị sờ gáy cho mà coi”. Thằng Đẹn uống cà phê về nói với ông Thảnh

- Ba, người ta đang đồn rân chuyện gò Chàm, hổng biết mình có bị sao không nữa?

Hai Thảnh lo lắng mấy ngày qua, càng lo hơn khi thấy bảng cấm ở gò Chàm, giờ thì thiên hạ thêm mắm dặm muối càng làm cho câu chuyện thêm to. Hai Thảnh sợ có ngày người ta sẽ hỏi chuyện ông, tuy vậy Hai Thảnh cũng cố trấn an

- Không sao đâu con, mình có trộm cắp chi đâu! Mình đào đá ong trước khi có lệnh cấm kia mà!

Thằng Đẹn lại nói

- Ngoài quán cà phê người ta đồn nhóm thợ đá làng Lộc Thọ bị bắt rồi, họ còn thu lại được tượng thần Shiva bằng vàng từ tay bọn buôn đồ cổ.

Hai Thảnh chẳng phải lo lâu hơn nữa, bữa cơm trưa vừa dọn ra thì thấy Khanh khùng xăm xăm bước vào nhà. Sở dĩ y có biệt hiệu Khanh Khùng là vì tánh tình y tửng tửng , hờn giận bất thường. Y vốn là công an xã, năm kia làng có ngườii gả con cho Việt Kiều. Y không thấy người ta đến xin xỏ hay báo cáo như lệ thường. Y bèn tự thân đến nhà người ta, xồng xộc xông vào dò xét nhưng không thấy gì lạ. Y hỏi một câu ngớ ngẩn

- Tôi nghe người ta nói nhà bà gả con cho Việt kiều, bà làm đám cưới dấu sau bếp? Sao không báo cáo xin phép chính quyền?

Bà chủ nhà ngớ người ra, sau này chuyện lan truyền khắp các làng, từ đó ai cũng kêu y là Khanh khùng. Hai Thảnh thấy Khanh khùng thì lòng đã sờ sợ nhưng cũng cố tươi tỉnh chào hỏi y. Y chẳng đáp mà hoạnh họe

- Có phải ông được vàng Hời? Tại sao không báo cáo cho chính quyền?

Hai Thảnh run bắn lên nhưng trấn tĩnh chối

- Trời, ai đồn chi ác vậy? Làm gì có chuyện đó! Người ta ghen ăn tức ở đồn thổi bậy bạ đó!

Khanh khùng vặn

- Thế tiền đâu ông xây nhà năm tấm, lại còn mua mấy lô đất ngoài lộ?

Hai Thảnh nhanh nhảu

- Tui trúng mánh, đào được vỉa đá ong gò Chàm nên mới có tiền cất nhà.

Khanh khùng buông lời đe nẹt trước khi quay đi

- Ông bà liệu sao đó thì liệu, trên quận mà xuống thì không chối được đâu!

Hai Thảnh bàn với bà Tư Đàm nên có lễ vật gì cho y để y làm lơ cho, bàn tới bàn lui chỉ có tiền mặt là tiện lợi nhất và y cũng thích nhất. Mấy hôm sau quả thật người trên quận xuống thật, họ khám xét nhà Hai Thảnh và bắt Hai Thảnh đem về trên quận. Khanh khùng uống cà phê quán lộ thiên tiết lộ:” Quận khám nhà Hai Thảnh, tịch thâu ghè gốm cổ, một số vàng lá dập nổi thần Shiva và nhiều hiện vật bằng vàng khác. Quận cũng sung công quỹ mấy lô đất ngoài lộ vì là mua bằng tiền bất hợp pháp...” 

Bảy Thạnh hay tin hả dạ lắm, gặp bạn thợ đá liền hả hê báo tin

- Đáng đời Hai Thảnh, nếu hồi ấy ổng chia cho anh em một ít lấy phước thì giờ đâu đến nỗi mất sạch. Vàng Hời bị yểm nên linh lắm, nếu may không bị vật thì cũng mắc họa nọ kia”

Thằng Đẹn đổi thay từ ngày Hai Thảnh được vàng. Nó không còn đi thả bò nữa, bắt đầu đua đòi theo trào lưu K.Pop như con trai thành thị, quần áo se sua mốt Hàn, tóc nhuộm vàng hoe chứ không còn cháy nắng hoe hoe đỏ như râu bắp. Nó kết bạn với đám bạn vô công rỗi nghề  suốt ngày cà phê, bi da, nhậu nhẹt, Karaoke, rồi còn đua đòi bia ôm gái ghú… Có lần say sưa giành đào với nhóm khác ở quán Karaoke Ô Mê Ly, hai nhóm xông vào đánh đấm chém nhau. Một đứa trong nhóm kia bị chém trọng thương. Bà Tư Đàm phải bỏ ra một món tiền rất lớn để bồi thường cơm thuốc cho nạn nhân và  biếu họ nhiều lần nữa để họ bãi nại, phần phải dúi cho Khanh khùng để y làm lơ cho 

Chỉ sau mấy năm nằm ăn không và phá tán, của cải tài sản trong nhà dần đội nón ra đi sạch trơn. Hai Thảnh ở tù vì tội phá hoại di tích khảo cổ và mua bán cổ vật trái phép, nhờ có tiền nên chỉ hai tháng được thả ra. Hai Thảnh nhìn cảnh nhà cửa và thằng Đẹn nên phát rầu, nói với vợ

- Giá hồi đó đừng được cái ghè gốm thì chắc nay đâu đến nỗi này! Những tưởng được vàng sẽ lên hương nào ngờ bạc thế!

Bà Tư Đàm nằm võng đưa kẽo kẹt, hò

...Ầu ơ… ví dầu chàng được vàng Hời

            Ngỡ đâu lộc đất ơn trời chi đây...ầu ơ…

  Ầu...ơ… Ví dầu họa phước đổi thay…

 ầu...ơ...họa phước đổi thay

 ầu...ơ...Hôm qua mới được bữa nay mất rồi. 

Hai ông bà còn rầu rĩ thở than, thằng Đẹn từ đâu khệnh khạng xô cửa bước vào, dáng điệu loạng choạng chân nam đá chân chiêu, hơi thở nồng nặc rượu bia

- Ba má bán cái nhà này đi, lấy tiền cho tui làm ăn.

Hai Thảnh sững sờ, bà Tư Đàm ngồi bật dậy chưng hửng

- Đẹn, mầy nói sao? Bán cái nhà này rồi tao với ba mầy ở đâu? Không lẽ ra chợ gò Loi?

Thằng Đẹn hùng hổ

- Tui hổng biết, phải bán cái nhà này, tui cần tiền làm ăn!

Ông Hai  Thảnh nạt

- Làm ăn gì mầy! Ăn nhậu chơi bời thì có!

Thằng Đẹn sấn tới như muốn oánh ông già. Bà Tư Đàm la to

- Đẹn, mầy tính hỗn với ba mầy sao? Đồ bất hiếu! Muốn bán thì bán, sau này đầu đường xó chợ thì đừng trách.

Thằng Đẹn chỉ cần nghe bán là xuống nước liền

- Phải vậy chứ! Ba má bán nhà đưa hết tiền cho tui đặng tui làm ăn.

Nói đến đó nó ụa ọe nôn thốc nôn tháo xuống nền gạch bông, đoạn nó nằm vật ra giữa nhà ngủ ngáy như bò rống. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 02/2021

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuộc điện thoại đã dứt mà Tử Linh vẫn còn đứng tần ngần một lúc rồi mới quay trở ra hiên, ngồi xuống cái ghế gỗ mà khi nãy cô đang ngồi, vừa đọc sách, vừa nhâm nhi tách trà nóng và những chiếc bánh madeleine thơm mùi vanilla trước khi tiếng chuông điện thoại từ trong phòng khách buộc cô phải chạy vào...
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng, họ còn kháo nhau là mật thiết hơn cả tam tinh, tam điểm, tam tụ, tam anh… Chẳng cần kết nghĩa đào viên nhưng chúng sống chết có nhau, chưa bao giờ rời nhau một li hay một khoảnh khắc nào. Thỉnh thoảng cũng có xung đột giữa ba đứa nhưng rồi cũng trôi qua êm thấm. Cả ba nương tựa nhau, hỗ trợ nhau, sinh hoạt qua lại với nhau. Thật tình mà nói thì chỉ có hai mới đúng, vì thằng Tưởng vốn là đệ tử ruột của thằng Tâm mà ra, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nào đó nên thiên hạ cho là ba, nói cho cùng thì là bộ bà cũng đúng hay khắt khe bảo bài trùng cũng không sai.
Lật bật đã tới tháng 9 mùa tựu trường. Lòng nao nao nhớ thời học sinh nhỏ nhít đất thần kinh xưa. Ở Huế, mùa tựu trường cũng tưng bừng rộn rịp như bất cứ nơi nào khác trên đất quê nhà. Cũng bâng khuâng luyến tiếc những ngày hè tươi đẹp chóng qua. Cũng nao nức trở lại trường lớp gặp bạn thầy cũ, mới. Có khác chăng mặt mũi mấy cô mấy cậu học trò đều phảng phất một vẻ nghiêm trọng. Làm như mình đã trưởng thành tới nơi!
Cách đây 5 năm ông bà này có cho một cậu sinh viên Việt nam trẻ tuổi, đáng tuổi con cháu xin mướn phòng ở trọ học tại nhà ông bà cho đến đầu năm tới 2025, cậu sinh viên này sẽ tốt nghiệp đại học 4 năm với văn bằng cử nhân
Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước
Nàng tỉ tê với nhỏ bạn về những cuộc “thảo luận” sôi nổi của vợ chồng nàng. Bằng mọi giá, nàng muốn giữ cho đứa con có tuổi thơ tươi đẹp, hạnh phúc. Bao năm qua, đã có lúc nàng buồn rầu nghĩ, mình như con gà đẻ trứng vàng. Chỉ được việc, nhờ biết đẻ trứng vàng. Nàng không dám đề cập đến chuyện tiền bạc, sợ làm chồng buồn, cho rằng nàng cậy sức mạnh kim tiền lấn áp chồng. Nàng rất may mắn trong cuộc sống ngoài xã hội. Chưa ra trường, nàng đã nhận được hợp đồng làm việc với một trong những hãng hàng đầu của nước Đức. Ngược lại, chồng nàng quá lận đận. Cả năm trời, anh chạy đôn, chạy đáo tìm việc, mà vẫn phải nằm nhà. Nàng tự nhủ, tài lộc trời ban, gia đình sống thoải mái, chứ tính toán chi mà mất hòa khí vợ chồng. Tháng tháng, nàng thanh toán nợ to, nợ nhỏ, hàng hàng lớp lớp chi phí tất yếu của xã hội văn minh.
Xíu tiếp tục cuộc hành trình bất tận của mình, đừng tưởng Xíu chơi hoang hay đi rông, phiêu bạt giang hồ vô tích sự. Chính sự lang bạt kỳ hồ của Xíu và anh em nhà Xíu đã đem lại mưa thuận gió hòa, đem lại nguồn sống cho loài người và vạn vật muôn loài. Lần này Xíu quay về lại góc Đông Nam Á châu, nơi có dòng sông thiêng liêng chảy qua.
Tôi không phải là thi sĩ, nhưng chắc cũng giống như những thi nhân của đất Việt, thường gửi gấm tâm tình u uất vào những vần thơ của mình. Những bài thơ viết xong, tôi cặm cụi chép vào nhật ký, xen vào những lời than thân trách phận, hờn mây khóc gió. Cuốn nhật ký, tôi cất kỹ trong ngăn kéo ở cái table de nuit cũ kỹ bên cạnh chiếc giường nhỏ trong phòng ngủ. Cũng may là má chưa lục ra đọc lần nào...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.