Hôm nay,  

Thầy Tôi, Năm Mươi Năm Trước

16/09/202012:02:00(Xem: 3284)
GS Le Huu Muc
Giáo sư Lê Hữu Mục



Tưởng niệm Giáo sư Lê Hữu Mục.

Riêng tặng Giáo sư Nguyễn Văn Sâm, và Ngọc Ánh đã trợ giúp tôi hoàn thiện bài viết này.


I. 

Năm mươi năm, nửa thế kỷ tròn, biết bao nhiêu sự việc đã xảy ra thăng trầm biến đổi, mà sao tôi cứ tưởng mới hôm qua !!??


Thời đó con gái được vào Đại học là niềm vinh dự lớn của gia đình, nhất là ở những gia đình nghèo, như gia đình đông con của ba má tôi vùng Quận Tư - Khánh Hội. Tôi sẽ không dông dài câu chuyện về xã hội, chính trị.. thời đó luôn luôn xáo trộn như cuộc chiến Tết Mậu Thân 1968, hay cuộc chiến Mùa Hè đỏ lửa 1972, mà tôi chỉ muốn nhắc đến  Thầy giáo của mình năm học 1969-1970 ở Đại học Sư phạm – Saigon.


Tôi là người rất may mắn trong đường học vấn, và học rất dễ dàng. Trong khi anh em trong nhà đều theo học Ban A, B (Ban Hóa, Sinh, Ban Toán, thời bấy giờ), thì tôi lại theo học Ban C, tức Ban Văn chương Việt nam.

Những năm cuối của bậc Trung học, tôi học ở một ngôi trường có tên là Trường Sơn, Quận Ba, Saigon do nhà văn, cũng là thầy Nguyễn Sỹ Tế làm Hiệu trưởng. Trường Sơn là trường chuyên ban C, nên lớp tôi có nhiều học sinh chuyển qua từ các trường Taberd, Marie Curie, tức là học sinh trường Tây. Tôi học chung với đám “con nhà giàu” “nói tiếng Tây” nên cũng có phần “chới với” về ngoại ngữ.

Giáo sư Trường Sơn phần nhiều là những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng... như Thi sĩ Nguyên Sa-Trần Bích Lan, Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, Giáo sư Hoàng Cung… Lên Đại học chúng tôi may mắn được “tiếp cận” với những giáo sư lừng lẫy như Linh mục Thanh Lãng, Giáo sư Lê Ngọc Trụ, Giáo sư Phạm Cao Dương, Giáo sư Nghiêm Toản, Giáo sư Nghiêm Hồng …để có cơ hội học tập cái cao quí, tài hoa của họ.

Và, giáo sư mà tôi có nhiều sự nể trọng, kính phục, kỷ niệm, và cũng có nhiều tâm tình gửi gấm về ông, đó là Giáo sư Tiến sĩ, Thầy Lê Hữu Mục.


Cuối năm 1970, chúng tôi tốt nghiệp khóa học cấp tốc dành cho giáo sư Trung học Đệ Nhất cấp, tức là giáo sư dạy từ Đệ Thất (lớp Sáu) cho đến Đệ Tứ (lớp Chín). Có lẽ do tình hình cả nước thiếu giáo sư Trung học diện này, nên Bộ Giáo Dục mở khóa cấp tốc mười hai tháng, thay vì đào tạo cho diện Cao đẳng Sư phạm hai năm. Kỳ thi tuyển đó có kết quả vào ngày 17/11/1969 với bốn mươi bảy sinh viên, mà tôi may mắn, vinh dự đạt điểm ưu hạng, và điểm số của năm học kết thúc vào ngày 16/11/1970 vẫn với kết quả dẫn đầu.


Như vậy, đúng trong mười hai tháng ở Đại học Sư phạm với Giáo sư hướng dẫn, chịu trách nhiệm trực tiếp lớp tôi là Thầy Lê Hữu Mục, và tôi là sinh viên ưu tú của Thầy. Sau này, cũng mới đây thôi, khi đọc tiểu sử, tôi mới được biết Thầy sinh năm Ất Sửu 1925, tức Thầy hơn tôi hai con giáp. Lúc đó Thầy bốn mươi lăm, còn tôi hai mươi mốt tuổi.


Sự Vụ Lệnh bổ nhiệm đi dạy học được ký ngày 23/01/1971, và tôi trình diện Trường Phổ thông Trung học Cần Giuộc – tỉnh Long An, cách trung tâm Saigon hai mươi lăm cây số. Đây là nhiệm sở gần nhất cho sinh viên tốt nghiệp đỗ đầu bảng… Vừa đi dạy, vừa tiếp tục học ở Đại học Văn Khoa, tôi hoàn thành Cử nhân Văn chương Việt nam vào ngày 18/10/1972…


Trong mười hai tháng học liên tục không nghỉ hè của khóa học, lớp chúng tôi gần như là một gia đình. Chúng tôi gặp nhau mỗi ngày, cũng bao nhiêu gương mặt đó, và dĩ nhiên hiểu luôn tính nết của nhau. Thầy Mục có nhiều giờ dạy nhất với chúng tôi, vì ngoài môn chính là Văn chương Quốc Âm, Thầy còn dạy về Tâm lý học, và Nghệ thuật Giảng dạy. Những giờ đi thực tập với Thầy ở các trường Phổ thông Trung học Saigon là những giờ căng thẳng nhất. Thầy luyện tập cho chúng tôi về giọng nói, cử chỉ, bước đi, cách nhìn khi đứng trước học sinh. Thầy rất gần gũi, yêu mến sinh viên, học trò của mình. Thầy gọi chúng tôi bằng tên, hoặc bằng “Mi” và xưng với học trò là “Ta”.


-Ta là Hữu Mục, Hữu Mục là có mắt, có mắt là Hữu Mục !

Về sau này, khi đọc được quyển “Giáo sư Lê Hữu Mục, và những cây bút thân hữu cùng Đồng Tâm” được Văn đàn Đồng Tâm (Houston-Texas) in năm 2010, tôi mới vỡ lẽ ra nhiều thứ, và day dứt không nguôi về sự thiếu sót tắc trách, sự vô tình của mình đối với Thầy.

Giáo sư Lê Hữu Mục là giáo sư “Lê Có Mắt”, đồng thời là giáo sư “Lê Có Tai”, mà tôi mạn phép tỏ bày với quí vị ở cuối bài.


Bây giờ, đã năm mươi năm qua, tôi vẫn nhớ như in hình dáng của Thầy. Dáng người đậm, cao to, hay mỉm cười, giọng nói ồm ồm như lệnh vỡ. Lớp tôi chỉ có bốn mươi mốt học sinh nên Thầy không cần micro khuếch âm ; chỉ khi nào đến giờ học Y tế học đường, hay Quản trị học đường chung với học sinh các lớp khác của khóa, các giáo sư mới dùng. Thầy Mục đi đứng, nói chuyện nhanh nhẹn ngay cả lúc giảng bài. Thầy không có cours cho lớp, sinh viên phải tự ghi chép. Thầy rất thích sự sáng tạo từ học trò.


Thầy Mục với văn tài nổi trội từ những năm Thầy còn trong tuổi thanh xuân, “đã có những công trình làm ngẩn ngơ người đọc” (Giáo sư Nguyễn Văn Sâm). Đó là bản dịch hai quyển truyện ký bằng chữ Hán là Lĩnh Nam Chích Quái, và Việt Điện U-Linh Tập. Thầy Mục có bằng Cử nhân năm hai mươi lăm tuổi (1950), do cơ cấu giáo dục Đại học của Việt Nam Cộng Hòa thời đó ưu tiên cấp bằng Tiến sĩ cho những ai du học nước ngoài về. Vì thế Thầy Mục phải chờ đến hơn hai mươi năm sau mới có dịp thi bằng Tiến sĩ Quốc gia năm 1973 tại Đại học Văn Khoa – Saigon. Kỳ thi Tiến sĩ Quốc gia này duy nhất được tổ chức chỉ một lần (vì hai năm sau đó, Saigon bị thay “người chủ” mới), và người đỗ Thủ khoa chính là Thầy Mục, và Á khoa là Giáo sư Nguyễn Văn Sâm, Thầy Đồ trên đất Mỹ hôm nay ; hiện đang nghỉ hưu ở California.


Kỷ niệm sâu sắc nhất mà tôi còn nhớ mồn một sau năm mươi năm với Thầy Mục, là lần thầy trò du ngoạn suối Lồ Ồ-Thủ Đức. Nhân cuộc du ngoạn ngoại khóa này, Thầy chỉ dạy cho cả lớp chúng tôi kỹ năng “nói trước công chúng”. Sáng hôm ấy, chúng tôi khệ nệ mang theo đủ thứ thức ăn, nước uống, lều trại, tấm trãi. Thầy Mục mang theo món cơm nắm, muối vừng. Thầy nói :


-Vì muốn cơm nắm dẻo, ngon, bà xã của thầy phải dậy từ sớm nấu cơm, nắm cơm cho tụi mi đó.

Chúng tôi cảm động cám ơn Thầy, đồng loạt sà xuống giỏ cơm nắm còn nóng hổi. Miếng cơm trắng phau, mịn, dẻ, mềm được gói kỹ lưỡng trong lượt vải mùng tinh tươm. Mấy đứa miền Nam –trong đó có tôi- chưa bao giờ được ăn món này, nên hả hê, thích thú lắm. Món cơm nắm của Thầy phút chốc sạch veo, còn bánh mì chả, gỏi cuốn, bò bía.. phải một phen..ế độ. Chúng tôi vui đùa, nhảy nhót chung quanh Thầy như trẻ nít, Thầy cười vui, trẻ trung như tuổi thanh xuân.


Chỉ với mười hai tháng học, nên chúng tôi chưa được hiểu biết cặn kẽ về tài hoa của Thầy Mục. Các bạn khác học hệ ba năm, có lẽ có nhiều kỷ niệm, và thân tình với Thầy nhiều hơn chúng tôi có. Điều đó, ắt hẵn. Vì điều đó, đến bây giờ, sau năm mươi năm chìm, nổi, tôi đã nhiều đêm trăn trở, tự trách mình, khi nghĩ đến Thầy Mục thương kính mà đáng lẽ tôi phải tìm thăm khi Thầy còn với mọi người.



II.  

Thầy Mục thương kính!

Khi con đặt bút viết những dòng này trân trọng gửi đến Thầy, thì mùa Hè sắp dứt. Mùa Thu miền Đông-Bắc sắp trở về, và sẽ có những chiếc lá đủ mầu, sẽ đan xen cho một mùa Thu với sắc mầu tươi tắn. Niềm tiếc nhớ khôn nguôi của đứa học trò tốt nghiệp ưu hạng ngày cũ khóa 1969-1970 Đại học Sư phạm Saigon chắc có thể Thầy không thể nhớ. Nhưng có điều, con tin rằng Thầy sẽ không quên lần thầy trò ta gặp nhau ở bùng binh chợ Saigon. Hai thầy trò vào quán cơm Thanh Bạch ăn trưa – thời khắc ấy chắc khoảng giữa tháng 4/1973. Vẫn nụ cười hóm hỉnh. Trong bữa ăn, Thầy nhìn con rồi nói :


-Mi khoan lấy chồng nha, học tiếp Cao học rồi về trường dạy học với Thầy.

Lúc đó, con choáng váng mặt mày, vì không nghĩ được Thầy có cái nhìn sâu rộng, ưu ái đó với con.


-Thưa Thầy, con nghĩ mình không đủ sức để học tiếp. Con còn một bầy em khốn khó.

Thầy nheo mắt nói nhanh :


-Mi quên rằng ta là Hữu Mục, Hữu Mục là có mắt sao? 

Rồi Thầy nói tiếp luôn :


-Ta có mắt nhìn người, làm gì có một NTL thứ hai!!!

Con hết hồn, và tự nhủ sao Thầy lại đánh giá mình cao đến thế. 

Con lắp bắp :


-Thưa Thầy, con không dám nghĩ xa như vậy đâu.

…Rồi Thầy trò chia tay…, chia tay cho đến bây giờ…


Có một điều làm con thích thú, tâm đắc, con xin thưa cùng Thầy : Đó là con cùng cầm tinh con giáp tuổi Sửu, tuổi con Trâu như Thầy. Con đến với cuộc đời này sau Thầy hai con giáp, tức sau hai mươi bốn năm. Giáo sư Nguyễn Xuân Hoàng cũng tuổi Sửu, nhưng chỉ hơn con một giáp, tức Thầy Hoàng sinh năm 1937. Tới đây, con có một nụ cười ý nhị, vì nghĩ rằng những con người cầm tinh tuổi Sửu rất đổi tài hoa, nhưng cuộc đời lắm lúc cũng trầm luân, khổ hạnh, vì “Nhất phiến tài tình vương khổ lụy”, phải chăng, thưa Thầy!!??


Thầy là nhà giáo, nhà nghiên cứu, là dịch giả, là nhà văn mà còn là nhạc sĩ. Thầy đã là ngọn hải đăng để chúng con bước vào con đường giáo dục như Thầy. Như R.Tagore, Triết gia Ấn Độ đã nói : “Nhà giáo như một ngọn đuốc, nếu không thắp sáng được mình, thì làm sao mồi được cho những ngọn đuốc khác?”. 


Điều này thật đúng, Thầy ơi! Con đã không “thắp sáng” được mình, vì chỉ vài năm đầu ra trường đi dạy trẻ. Con cũng chỉ là cô giáo trẻ, vui tươi, hồn nhiên, mơ mộng nhiều về một tương lai tươi đẹp. Nhưng sau 1975, con trở thành “thợ dạy”, công việc “thắp sáng” cho thế hệ tương lai biến thành “cần câu cơm”, từng đêm nhục nhằn thảng thốt. Tâm trạng đó đúng như ý câu lục bát của Thầy Nguyễn Văn Sâm khi đạp xe ngang qua Đại học Văn Khoa-Saigon :


“Trường này đâu phải trường ta.

Liệu mà sửa soạn về nhà đi buôn”. 

Và con cũng biết rằng Thầy cũng khổ đau lắm lắm trong hoàn cảnh ê-chề đó.

Thầy yêu sách vở, yêu trường lớp biết bao! Và suốt đời Thầy cặm cụi lo toan cho việc nghiên cứu văn chương Hán-Nôm. Thầy làm việc không ngơi nghỉ ; và sách vở đối với Thầy là tài sản, là tim óc, vô giá. Điều đó con biết được do qua ngòi bút kể chuyện của chị Lê Thị Hiền Minh, con gái lớn của Thầy : “Tháng 12/1978, thăm nuôi ông ở trại cải tạo Bầu Lâm, tôi có báo hai tin dữ : Bà nội mất, và “họ” đã tịch thu hết sách vở của bố rồi. Ông òa khóc như trẻ thơ khi nghe tin thứ hai”.Thương Thầy biết bao nhiêu. Biết được việc này ruột gan con đứt hết, Thầy ơi!


Thầy là “Lê có Mắt”, cũng là “Lê có Tai”. Điều này mãi về sau này con mới biết. Sao mọi sự quá trễ tràng với con!!?? Biết Thầy ở Canada, mà từ New York tới Canada có xa xôi gì cho cam, mà gần hết cuộc đời con chưa tới được để thăm Thầy!! Điều đó là một nuối tiếc lớn cho đứa học trò này, Thầy Mục ơi! Nhưng con lại có niềm vui nho nhỏ, vì con còn biết được “bí mật” của Thầy… là một nhạc sĩ khi mới mười ba tuổi. Bài nhạc của Thầy tựa là “Chèo Đi, Bơi Đi” đã ra mắt thính giả năm 1938. Rồi sau đó lần lượt “Trở Về Mái Nhà Xưa”, “Hẹn Một Ngày Về Vinh Quang”. Căn nhà 57 Duy Tân Saigon là một thư viện, cũng là một nhà hát với tiếng đàn guitar, hay tiếng kèn saxo, đặc biệt là tiếng dương cầm của Thầy phải nói chắc là tuyệt diệu lắm. 


Năm 2007, lần gặp gỡ các thân hữu, và học trò ở Cali, lúc đó Thầy hơn tám mươi tuổi. Dù nghễnh ngãng trong giao tiếp, nhưng Thầy vẫn nhận ra từng âm sắc sai trong bất cứ câu nhạc nào. Một người già tám mươi hai tuổi vẫn say sưa dạo những ca khúc kinh điển, bất hủ thế giới như Dạ Khúc (Serenade-Schubert), Dòng Sông Xanh (Le Beau Danube Blue-Johann Strauss Jr.), hay Trở Về Mái Nhà Xưa (Come Back To Sorriento-Ernesto De Curtis), thì không phải ai cũng như thế được.


Thưa Thầy!

Con biết Thầy mới vừa từ giã thế nhân ngày 08/11/2017 ở Montreal-Canada thọ chín mươi hai tuổi. Như vậy, Thầy cũng tròn tuổi thọ. Thân mẫu con đi đến cõi đời này trước Thầy bốn năm, và cũng “đi về” trước Thầy bốn năm, vẫn với tuổi thọ chín mươi hai. Qua đó, con bỗng thấy có chút ngộ nghĩnh cho sự trùng hợp này.


Thầy đi vào cuộc đời này vào ngày chớm Đông -24/11/1925- , và “đi ra” cũng vào lúc chớm Đông. Thầy ơi!


“Thầy về với Chúa yên vui.

Giữa mùa Đông giá, ngậm ngùi riêng con”.


Dù không gặp Thầy gần năm mươi năm, con vẫn nghĩ Thầy vẫn như ngày xưa ở Đại học Sư phạm Saigon lúc Thầy bốn lăm, con hai mươi mốt. Bây giờ con bẩy mươi mốt, Thầy chín mươi lăm. Con mong ước Thầy ở chốn “BÌNH YÊN”, Thầy đang ở “NƯỚC TRỜI” ngàn đời yên bình.

Dù Thầy đã đi xa, nhưng con nghĩ ở nơi nào đó, Thầy đang nghe được tiếng lòng con, vì “Thác là thể phách, còn là Tinh Anh” (Kiều-Nguyễn Du).


Thầy ơi!

Hoàn cảnh ngửa nghiêng, vận nước nổi trôi, Thầy trò ta đã tạm quên “nghề văn, nghiệp bút”. Con cũng đã buông trôi theo phận người mấy mươi năm chìm nổi ở xứ người, chừng ngó lại tuổi già “chim bay mỏi cánh”. Mà có sá gì thân con? Thầy là sa mạc mênh mông, con chỉ là hạt cát tủi hờn. Thầy là biển lớn thênh thang, con chỉ là giọt nước long lanh, ngậm ngùi cho duyên số. Con vẫn nghĩ Thầy vẫn ở bên bao bạn hữu, bên học trò mà hiện giờ chúng con đã “Ngất dặm mù khơi, thấy trăng mà thẹn những lời non sông” (Kiều-Nguyễn Du). 


Thầy là “Lê có Mắt”, Thầy cũng là “Lê có Tai”, nghĩa là Thầy là Văn nhân, nghệ sĩ. Lòng mê say văn chương Việt, văn chương Hán-Nôm, cũng như mê say cung đàn, giọng hát, có khi nào Thầy cảm thấy mỏi mệt muốn tạm dừng chân!?


“Khi bức màn buông, danh vọng hết

Người về lòng rũ sạch sầu thương

Người vào cởi áo, lau son phấn

Trả cả vinh hoa, lẫn đoạn trường.”

 (Sân Khấu-GS Hoàng Như Mai)


Vâng, đúng thế Thầy ạ! Thầy có đủ hết mọi cung thương, nhưng Thầy đã ra đi thanh thản “phủ định sạch trơn” những phiền lụy của cuộc đời. Như Thầy đã trả lời Giáo sư Nguyễn Văn Sâm : “Bây giờ moa quên hết mọi chuyện rồi toa… Moa bây giờ thấy lòng mình là MÂY”. Và Giáo sư Nguyễn Văn Sâm đã khẳng định : “Con người đạt đến độ buông thả rốt ráo thì lòng mình là MÂY, chứ không phải NHƯ MÂY”… Ôi! Bao người đạt đến cái tâm LÀ MÂY đó!!? 


Hiện giờ, dù lòng con trĩu nặng sầu thương, giống như cô học trò nhỏ Vũ Thị Gio Linh đã viết bài thơ “Thưa Thầy, Con Đi” trên đặc san Xuân Gia Long năm 1973, để nói với Thầy :


“Thôi, thưa Thầy con đi

Năm cuối cùng đã hết

Những giọt buồn thế hệ

Đưa tiễn những người đi

Bây giờ là Xuân cuối

Thôi, thưa Thầy con đi”.

Con đã đi vào cuộc sống trần thế nhọc nhằn từ khi rời Đại học Sư phạm, mới đó đã năm mươi năm. Dù chưa một lần nào gặp lại Thầy sau 1973, nhưng con vẫn nghĩ có Thầy trong tâm tưởng. Con đã học được chữ TÂM từ nơi Thầy giáo cũ, nên cả đời tâm niệm “Đâu dám xa rời chữ TÂM” (Kiều).


Con thường hay ngắm trăng giữa trời đất bao la vào những đêm rằm hoa đăng mở hội trên trời. Giờ đây, con phải hướng tầm mắt mình để ngắm mây trời nhiều hơn, vì Thầy chính là MÂY. Thầy “Lê có Mắt”, “Lê có Tai” bây giờ LÀ MÂY, MÀ MÂY THÌ CHỈ CÓ, VÀ CHỈ Ở TRÊN TRỜI.


Song Lam.

Chớm Thu 9/2020.

Cherry Hill, NJ. 

 

     

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau dịp lễ Noel là không khí tháng chạp lấp ló đầu ngõ rồi! Thời tiết mùa đông lạnh lẽo đã dần nhường chỗ cho gió xuân về mơ màng trong sương sớm. Khoảng mùng 5 tháng chạp là mọi người đi tảo mộ đông vui. Đươc gặp bà con, họ hàng nội ngoại chào nhau tíu tít sau một năm tất bật là thấy tết đã sắp sửa cận kề. Tết không chỉ là niềm trông đợi của trẻ thơ mà còn là niềm vui của người lớn. Xưa chừ người ta thường nói vui như tết mà!
Con tàu rú lên tràng còi thất thanh. Âm thanh chuyển từ trầm đục sang cao chói. Chuyện gì vậy. Mọi người hỏi nhau. Sao bỗng dưng còi tàu gầm thét như con thú bị thương vậy. Tàu bỗng dưng chạy chậm hẳn lại. Và tiếng rít của bánh sắt trên đường rầy như mũi khoan nhọn xoáy vào lỗ tai. Người soát vé tất tả chạy trên lối nhỏ giữa hai hàng ghế. Chuyện gì thế ông ơi. Những câu hỏi nhao nhao. Something wrong, very wrong. Mọi người vui lòng ngồi yên tại chỗ. Người soát vé nói vội trước khi mất hút sau khung cửa nối sang toa kế tiếp. Khủng bố hay cầu đường xe lửa bị sập. Mưa lũ đã mấy hôm rồi. Người ta xớn xác hỏi nhau. Tin tức truyền miệng lan nhanh như đám cháy rừng. Không ai biết chắc chuyện gì. Chỉ biết tàu không thể tiếp tục chạy. Nhìn qua cửa sổ, chỉ thấy rừng cây đang vùn vụt dạt về phía sau bỗng chậm dần.
Đọc thơ “nhớ nhà” của Nguyễn Thị Vinh càng thêm nhớ! Ai cũng bảo rằng mùa xuân làm ấm lòng người, nhưng chưa chắc gì. Mùa xuân đó là mùa xuân ở bên ấy, bên Việt Nam họa chăng có ấm lòng, chứ mùa xuân rơi vào tiết mùa đông lạnh lẽo bên trời tây này lạnh vô cùng...
Bà Hai Kỹ lơ mơ ngái ngủ thò chân xuống giường, chợt giật nảy cả người, nước đâu mà linh láng ngập đến tận ống quyển vậy trời. Bà tỉnh ngủ hẳn, hoảng hốt la to: – Dậy, dậy mau, nước vô ngập nhà rồi!
Anh muốn về thăm Việt Nam, chị cũng vậy. Anh nói với chị: Em à, cũng hai năm rồi, tụi mình chưa về thăm Việt Nam. Anh thấy nhớ quá, nhớ hàng cây dâm bụt, gốc ổi, cây dâu đất ngoài quê anh. Nhất là ngôi nhà có bức tường thành và cái cổng bằng xi măng. Anh đã đem theo hình ảnh đó suốt mấy mươi năm rồi, nhưng lúc nào cũng nhớ nó. Mình đi về thăm một chuyến em hè...
Lần này, 2023, tôi chọn đi xem Tuy Hòa (Phú Yên) và Qui Nhơn (Bình Định) hai thành phố nhỏ, không mấy nổi tiếng với hy vọng nhìn thấy, cuộc sống tỉnh lẽ vẫn còn đằm thắm hiền hòa, chưa huyên náo chật chội như Hội An, nơi mỗi ngày có cả chục chuyến xe buýt thả nườm nượp khách du lịch xuống bến...
Những ngày cận tết trời Sài Gòn se se lạnh. Cái lạnh mang theo chút nắng hanh làm đẹp hơn bao chiếc áo len buổi sáng những con đường. Khóa học cuối năm chấm dứt bằng đêm văn nghệ toàn trường của đại học sư phạm...
Ngày Tết ai ai cũng nhớ đến bánh chưng, bánh dầy. Bánh chưng là biểu hiệu của đất trời, là tất cả của vũ trụ và của lòng hiếu thảo, có tự truyện từ lâu đời, từ đời vua Hùng Vương xa xưa. Người trong Nam còn gọi là bánh tét, có lẽ là do chữ tiết hay Tết, ý là bánh của ngày Tết...
Hôm rồi, gia đình chúng tôi bảy người, có đặt bàn tại nhà hàng The Keg (the steak house and bar nổi tiếng ở Canada ) lúc 7.30 pm. Gần tới giờ, chúng tôi phone hỏi nếu chúng tôi đến 7pm được không, họ trả lời ok, và chúng tôi liền chạy xe đến, có mặt trước 15 phút...
Mấy cái rễ chết khô này là những gì còn lại của cây mít mà tự tay tôi trồng mấy chục năm trước, bên mép một hố bom. Chúng đã theo tôi qua chặng hành trình hơn bảy ngàn cây số từ một vùng quê Quảng Nam đến thành phố lớn nhất của nước Úc. Thời chiến quê tôi là vùng đất không người và, có lúc, là vùng “tự do oanh kích”. Trở về đó sau tháng Tư năm 1975, khu vườn xưa của tổ tiên đã là một cái rừng rậm, màu xanh chồng lên màu xanh, mấy tầng, mấy lớp với những táng cây cao thấp chằng chịt dây leo, những chùm chìm bìm phủ từ trên xuống và những bụi đơm xôi đầy gai góc cố thủ bên dưới chờ chực cơ hội ngóc đầu lên, chỉ trừ màu đất sét đỏ quạch của cái hố bom sâu hoắm ở góc vườn, dấu tích của một trận oanh tạc cách đó ba năm, trong “Mùa hè đỏ lửa”.
Đầu tháng 12, nhân dịp vợ chồng người bạn sang Pháp du lịch, chúng tôi hẹn hò nhau, rong chơi Paris vài ngày. Khi cả nhóm đang đi dạo, cười nói xôn xao, điện thoại của tôi reo. Nhìn vào màn hình nhỏ, thấy tên Manager của tôi. Tôi nhíu mày, mình đang nghỉ phép, bà ấy gọi làm gì...
Người Việt tị nạn đã có một đóng góp to lớn vào văn hóa ẩm thực nhân loại: một thức ăn mang đậm bản sắc dân tộc Việt. Thức ăn dó là Phở. Mùi Phở thơm ngon hấp dẫn, nóng hổi, hợp với mọi khẩu vị đã chinh phục bao tử mọi người thuộc mọi tôn giáo. Hễ nơi nào có bước chân con dân xứ Việt ở thì nơi đấy có Phở...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.