Hôm nay,  

Em Về Trẩy Hội Vu Lan

8/27/202014:43:00(View: 2505)

 Em thướt tha trong ta áo dài màu hoa dương, cái màu tươi sáng rực rỡ như màu nắng của xứ sở này, tà áo dài của em như nổi bật giữa vườn chùa xanh biếc. Các bà, các cô cũng xúng xính với những tà áo dài thiên thanh, hồng phấn, cánh sen, bạch ngọc… cứ như một bầy bướm ở vườn địa đàng, những tà áo lam thanh tịnh, giản dị dung chứa ý nghĩa đạo cả, những vạt áo nâu hiền hoà, bình dị và chơn chất như đất cùng về trẩy hội Vu Lan. Lá đại kỳ năm màu bay trong nắng gió trông đẹp làm sao, lòng người phấn chấn như ngũ căn, ngũ lực vậy. Các dây cờ năm màu được treo khắp nơi càng làm cho quang cảnh quanh chùa thêm phần rạng rỡ trong ngày hội hiếu. 

 Thầy ban đạo từ xong, các em thiếu nhi ra trước lễ đài múa dân hoa cúng dường. Các em sinh ra và lớn lên ở đây, tiếng Việt không rành và cũng chưa đủ kiến thức để hiểu biết về đức Phật và Phật pháp. Các em được được phụ huynh chở về chùa mỗi cuối tuần để các những anh chị trong gia đình Phật tử dạy tiếng Việt, hướng dẫn các nghi thức tối thiểu trong chùa và truyền trao kiến thức Phật học. sáng hôm nay, tại lễ đài này, các em múa hát dâng hương và đọc những bài văn bằng tiếng Việt cho toàn thể phụ huynh và quý Phật tử đồng hương nghe.

 Y và em ngồi nghe thầy trùng tuyên điển tích ngài Mục Kiền Liên. Em thì thầm thắc mắc:

 - Ngài Mục Kiền Liên là đệ tử lớn của Phật, được tôn xưng là đệ nhất thần thông, vậy những đệ khác khác thần thông không bằng ngài sao? 

 Y nhìn em trìu mến:

 - Không phải vậy đâu, các đệ tử Phật đã chứng đắc A La Hán nên thần thông, trí huệ, năng lực… như nhau. Ngài Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất, ngài Xá Lợi Phất là trí huệ đệ nhất, ngài A Nan là khai ngộ đệ nhất…Ấy là mang tính biểu trưng, mỗi người đaị diện cho một mặt. Thật ra thì các ngài A La Hán ấy ai cũng là thần thông đệ nhất, trí huệ đệ  nhất, mật hạnh đệ nhất cả.

 Em vén tà áo dài, ý tứ khép chân laị rồi nói:

 - Ngài Mục Kiền Liên là bậc A La Hán thần thông đệ nhất, vậy mà mẹ của ngài đọa u đồ, vậy chúng ta là phàm phu tục tử như thế này, việc cầu nguyện, tu học chẳng tới đâu làm sao mà hồi hướng công đức cho ông bà cha mẹ hay cho khắp pháp giới đây? 

 Y đưa tay chỉ những đoá hoa chưng bên tôn tượng Thế Tôn:

 - Em xem kìa, những bông hoa xinh đẹp và thơm tho dâng cúng dường. Nếu chỉ một người nhìn mà hưởng thì sắc hương hoa ấy không tăng, còn như tất cả mọi người cùng nhìn hưởng hoa thì sắc hương ấy cũng chẳng hao hớt tí nào. Ngoài những người có mặt ở đây, còn có vô số chư thiên, quỷ thần, phi nhơn… cùng đến hưởng hoa nhưng sắc hương vẫn vậy! Em còn nhớ thuở nhỏ không, tuị mình chơi ống kính vạn hoa, chỉ khẽ động tâm xoay nhẹ là có vô số hình dạng đổi thay, trùng trùng hoa hiện trong ống kính ấy. Em đừng quan tâm chuyện công đức ít hay nhiều, lớn hay nhỏ, quan trọng là ở tâm lượng của mình. 

 Ngài Mục Kiền Liên là bậc A La Hán thần thông đệ nhất nhưng mẹ ngài đọa u đồ cũng là chuyện thường tình. Mỗi người đi một đường thì làm sao gặp nhau, kẻ đi xuống người đi lên thì làm sao có kết quả giống nhau, nhân quả là vậy, không sai vạy bao giờ. Con người ta ở cõi này, vì nhơn duyên mà đến với nhau để làm cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bằng hữu… nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi, khi hết số thì đường ai nấy đi, nghiệp ai nấy thọ, dẫu có thương nhau ra rít cũng đành thôi, không ai cứu ai được. Khi còn sống thì có thể hưởng phước ké của nhau, như anh với em đây, chúng mình chia sẻ nhau tiền bạc, của cải vật chất… có thể cho tất cả, nhưng trí huệ thì không thể cho nhau, mệnh số không thể san sẻ; rồi một khi chết thì nghiệp ai nấy chịu, độc sanh, độc tử, độc khứ, độc lai. Vậy mới biết tu học Phật pháp là việc cá nhân, mỗi người phải tự dấn thân. Anh thương em nhưng không thể tu giúp em được, thầy thương đệ tử nhưng thầy cũng không tu giúp ai được. Đừng nghĩ mình đến chùa bỏ một ít tiền vào thùng phước sương hay cúng dường một khoản tiền rồi thì thầy tu giùm mình, thầy tụng kinh, niệm chú, cầu nguyện cho mình, không được đâu, ai ăn nấy no nghe em.

 Em yêu ơi, hãy nhớ lời Phật dạy, tự mình là ngọn đuốc, tự mình thắp đuốc lên mà đi! Thầy hay bạn hữu đồng tu chỉ là người hướng dẫn, là trợ duyên chứ không phải người tu giúp mình. 

 Em tha thướt tà áo dài bước lên trước lễ đài dâng nén hương trầm, thứ trầm hương chính hiệu mà em cất công tìm mua để cúng dường. Áo dài tha thướt, hài thêu nhẹ êm như một tiểu thư thuở xa xưa. Em thích giày cao gót khi đi mua sắm, nhưng lễ chùa thì mang hài thêu. Chiếc hài xinh quá, thêu hoa thật đẹp, ôm gọn ghẽ đôi bàn chân thon trắng nuột nà, dâng hương xong em lui về chỗ của mình, ngồi bắt chéo chân, bàn chân mang hài  xìa ra đẹp làm sao. Y vốn yêu thích nhìn em trong tà áo dài với hài thêu, giữa vườn chùa hôm nay, em và y cùng về trẩy hội hiếu,  cảm khái dâng trào, cảm khái cao độ y xuất khẩu thành thơ:

 Em về trẩy hội Vu Lan

 Hài thêu hoa với áo vàng thướt tha

 Dâng hương đảnh lễ Phật đà 

 Thì thầm khấn nguyện dưới toà Như Lai

 Này đây vóc dáng hình hài

 Con khôn lớn mẹ rạc rài xác thân

 Nghĩ về tứ trọng thâm ân

 Lòng hoan hỷ lắm tinh thần khắc ghi

 Phật đà  rất mực từ bi

 Mười phương tăng cũng hộ trì chúng sanh

 Pháp Phật mở lối an lành

 Gương xưa hiếu tử mà thành hội nay

 Y còn đang nghĩ về tam bảo, chợt nghe em thỏ thẻ:

 - Thuở nhỏ em vẫn thường nghe mẹ kể tích bà Thanh Đề, bà ấy làm bánh bao nhân thịt chó để đặt bát cho chư tăng, sự thật thế nào? 

 Y quay laị nhìn em rồi từ tốn giải thích:

 - Đó là tích người Tàu chế ra, tuy khác biệt nhưng căn bản vẫn là từ cái gốc chuyện ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ.
Bánh bao và thịt chó có thể nói là đặc sản văn hoá ẩm thực của người Tàu. Lịch sử văn hoá và ẩm thực nhiều ngàn năm của Ấn Độ không hề có, người Ấn Độ có thể là tín đồ Phật giáo, HinDu…nhưng phần lớn đều ăn chay không ăn thịt,  thịt chó laị càng không, có thể nói Ấn Độ là quốc gia có truyền thống ăn chay lâu đời nhất, có số lượng người ăn chay nhiều nhất thế giới. 

 Phật giáo truyền đến Trung Quốc thì bị thay đổi, biến dạng rất nhiều, đã bị bổn thổ hoá, địa phương hoá, Trung Hoa hoá từ nghi lễ, pháp phục, pháp khí, môn phái và nhiều yếu tố trong kinh điển. Dù có khác thế nào đi nữa, mình vẫn cứ  bám lấy cốt lõi của đạo là đúng pháp, dù tu theo môn phái nào, truyền thống nào nhưng giữ lấy nền tảng: Tứ diệu đế, bát thánh đạo, thập nhị nhân duyên, ba mươi bảy phẩm trợ đạo là chắc chắn. Cao hơn nữa là lục độ, thập độ, bát nhã, tánh không… thì dành cho những bậc trí huệ cao, mình mà cao vọng ôm lấy thì kham không nổi. 



 Em ngước đôi mắt đẹp dịu hiền chiêm ngưỡng tôn tượng ngài Mục Kiền Liên rồi thắc mắc:

 - Em thấy tượng ngài Mục Kiền Liên và tượng ngài Địa Tạng Vương sao giống nhau quá, nếu hổng nhìn kỹ thì không phân biệt được.

 Y cũng chiêm ngưỡng tôn tượng không rời mắt, miệng đáp lời em:

 - Ừ, giống nhau thật đấy! về lý thì nói thì Phật Phật đạo đồng, đồng đức, đồng năng, đồng giải, đồng hành nên tướng chư Phật giống nhau, cạo tóc đắp y, tâm hình dị tục nên tướng giống nhau, tâm lượng hạnh nguyện đều phổ độ chúng sanh nên hình tướng giống nhau. Về sự mà nói thì do các nghệ nhân tạo tượng thường tạo theo cái biểu mẫu chung, căn cứ theo những đặc tính căn bản như: ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp…tranh tượng trong đạo Phật là mang tính biểu trưng chứ không phải tả chân. Có một điều em nên nhớ lấy, thời Phật còn tại thế Phật giáo chưa truyền đến Trung Hoa, vì thế chưa có Phật giáo bắc truyền. Các nghệ nhân tạo tượng khoác cho ngài Mục Kiền Liên chiếc áo cà sa tay rộng kiểu thức bắc truyền là không phù hợp, sở dĩ tượng như vậy là do các người tạo tượng là người Trung Hoa, họ đã Trung Hoa hoá tranh tượng Phật giáo. Người Việt mình chịu ảnh hưởng nặng nề văn hoá Trung Hoa nên nhiều thứ đều rập khuôn theo là vậy! 

 Anh cũng lưu ý em một điều nữa, người Tàu tạo tôn tượng ngài Di Lặc và tượng thần may mắn rất giống nhau, đều là hình tướng mập mạp, phốp pháp. Tượng ngài Di Lặc thì có sáu đứa trẻ vây quanh nhiễu loạn ( tượng trưng cho sáu căn), còn tượng thần may mắn thì một tay cầm thỏi vàng, tay kia cầm hốt ngọc hoặc xâu tiền. Người mình nhầm lẫn, đaị chúng đi chùa nhưng nhiều người cũng không phân biệt được, họ thỉnh về thờ nhưng không hiểu và không biết đâu là Phật Di Lặc đâu là thần may mắn. 

 Tiếng mõ giữ nhịp tụng đều đều, thỉnh thoảng tiếng chuông vang lên, đaị chúng rì rầm tụng kinh Vu Lan. Em laị nói:

 - Ngài Mục Kiền Liên chứng đắc A La Hán, thần thông đệ nhất sao laị khóc lóc một cách ủy mị như thế? có lẽ nào một vị A La Hán lậu hoặc đã tận mà còn vướng cái tình, dù là tình mẹ con để rồi khóc lóc aí, ố, kinh, cụ… như vậy?
 

 Y cũng từng nghe có ý kiến như thế và cũng từng tham vấn nhiều đạo hữu nhưng chưa thấy thỏa đáng. Kinh văn có thể bản gốc tiếng Phạn ( Pali hay Sancrit) không có hoặc không còn, bản tiếng Việt là dịch từ Hán tạng. Y trả lời cho em mà hình như cũng tự nói với lòng mình:

 - Có thể là biểu diễn theo thông thường của thế tục, chỉ là một cách diễn cho mọi người thấy lòng hiếu thảo và thuận theo cái lối của người thế gian. Một vị A La Hán làm gì còn đau khổ, khóc lóc đến như vậy!  Nhân đây anh cũng cho em biết thêm, những kinh “ Phá huyết đồ”, “Địa mẫu chơn kinh”, thuyết Mâu Tử ( cho Phật Thích Ca là tiền thân của Lão Tử, là người Trung Hoa) đều là ngụy kinh, là sự ngụy tạo của người Tàu. Chính đaị sư Ấn Quang ( người Trung Hoa) cũng cực lực phản đối và khuyên đồ chúng đừng đọc những kinh ấy, không xem những tà thuyết ấy!
  

 Lâu nay anh vẫn nghĩ em hời hợt, chỉ biết tu phước như đa số người đến chùa này, hôm nay thì anh ngạc nhiên quá! Em có sự quan sát khá sâu, thấy được những điều khác biệt ấy và điều này chứng tỏ em chịu đọc sách và có tu huệ, anh tự hào về em lắm! 

 Quý thầy vào trai đường thọ thực, ngoài sân các Phật tử và đồng hương được nhà chuà đãi bún riêu chay. Ai cũng khen bún ngon, tiếng trò chuyện huyên náo, nhiều người lăng xăng vừa ăn vừa lo phần đem về, trông khá luộm thuộm. Giữa tập thể đông như thế này bảo mọi người ăn trong chánh niệm quả thật là không thể, ngay cả khi kêu gọi mọi nguời giữ yên lặng, đừng đi laị lung tung lúc đang làm lễ mà mọi người còn chưa nghe huống chi là lúc ăn. Sân khấu dựng tạm bên sân chùa đang ầm ĩ ì xèo với các ca sĩ đang hát hò nhảy múa. Em phàn nàn với y:

 - Chùa chiền là chốn thanh tịnh, còn gọi là A lan nhã, sao laị rước ca sĩ về ca hát muá may làm rộn cả lên? 

 Y cười cười nửa đùa nửa thật:

 - Để chiêu dụ đồng hương đến chùa, để gây quỹ đó mà.

 Y thấy chữ phương tiện hiện nay đang bị làm dụng quá đáng, dùng để biện minh cho nhiều việc không đúng pháp. Nếu mọi người đến chùa vì có ca sĩ về, nếu không có ca sĩ thì họ không đến chùa sao? Xem ra thật đáng tiếc và nhà chùa cũng không nên chạy theo cái thị hiếu này, không thể làm việc này mà bảo vì “ Hằng thuận chúng sanh” được!
 

 Em ăn bún và trêu y:

 - Lễ Vu Lan này anh cầu gì?

 - Cầu nguyện là một mục quan trọng trong tôn giáo, Phật giáo cũng không ngoại lệ, tuy nhiên Phật giáo là tôn giáo của sự thật, tỉnh thức và rất khoa học. Trong Phật giáo không có sự cầu nguyện mê muội, không cầu nguyện để được tha thứ giải tội hay ban phước, cũng không thể cầu thăng quan phát tài…Cầu nguyện cho ông bà cha mẹ quá vãng siêu sanh Tịnh độ, cầu cha mẹ hiện tiền thân tâm an lạc, nương tựa tam bảo, gieo trồng phước điền, mở rộng hơn nữa thì cầu cho mọi người sống trong tình thương, tỉnh thức và trách nhiệm… tất nhiên mình là phàm phu, năng lực không có. Mình cầu bằng cả tấm lòng  chân thành, những gì mình cầu cũng là lòng hiếu của con cháu đối với ông bà cha mẹ mà thôi. 

 Em cười thật tươi:

 - Em trêu anh đó mà, em biết anh từ lâu lắm rồi, bởi vậy em mới theo anh về đây trẩy hội Vu Lan. 

 Vườn chùa mùa này không còn nhiều hoa như lúc xuân sang. Mùa Vu Lan là lúc gần hết hè, tuy vậy cây cỏ vẫn còn xanh biếc. Những tà áo dài tha thướt trong vườn chùa làm cho khu vườn như rực rỡ hơn. Mọi người quanh năm mãi lo cơm áo gạo tiền, đôi khi quên nghĩ đến ông bà cha mẹ, nay nhân về dự lễ Vu Lan, tâm hiếu của nhiều người được khơi dậy. Khá nhiều đôi mắt long lanh không cầm được nước nước mắt, khi buổi lễ nhắc đến công ơn của mẹ cha. Những gương mặt phút chốc trở nên đầy biểu cảm khi nụ hoa trắng cài trên ngực áo. 

 Giữa vùng trời ngoại phương bát ngát, tiếng đaị hồng chung bay lên, làn sóng âm lan toả khắp đất trời, trên cao vầng thái dương toả nắng vàng rực rỡ, bầu trời xanh thẳm và mây trắng thong dong vô tận. Y chợt nghĩ: “ Ngày xưa, khi ngài Mục Kiền Liên và mười phương tăng chú nguyện cho mẹ chắc trời cũng xanh như thế” muôn đời trời vẫn xanh và mây trắng vẫn thong dong. 

 Bất chợt một đàn ngỗng trời bay qua, chúng cất tiếng kêu ông ổng như tiếng vọi đồng, mọi người ngước nhìn, y và em cũng ngước nhìn lên, lòng y liên tưởng thần Càn Thát Bà tấu tiếng nhạc  để cúng dường thập phương chư Phật. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 08/2020

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
Danh đi làm lúc 5 giờ sáng, ra về lúc 2 giờ trưa, từ sở làm đến đây khoảng 10 phút đường phi thuyền bay. Giờ này vắng khách. Những lúc khác, buôn bán khá bận rộn. Áo quần lót ở đây khắn khít thời trang, từ đồ ngủ may bằng vải lụa trong suốt, nhìn xuyên qua, cho đến hàng bằng kim loại nhẹ, mặc lên giống chiến sĩ thời xưa mang áo giáp nhưng chỉ lên giường. Hầu hết khách hàng đến đây vì Emily và Christopher. Người bàn hàng độc đáo. Họ đẹp, lịch sự, làm việc nhanh nhẹn, không lầm lỗi. Cả hai có trí nhớ phi thường. Không bao giờ quên tên khách. Nhớ tất cả món hàng của mỗi người đã mua. Nhớ luôn ngày sinh nhật và sở thích riêng. Ngoài ra, họ có thể trò chuyện với khách về mọi lãnh vực từ triết lý đến khoa học, từ chính trị đến luật pháp, từ du lịch đến nấu ăn… Khách hàng vô cùng hài lòng
Sau hơn ba mươi năm gắn bó với cuộc sống ở Mỹ, ông Hải và bà Lan quyết định về hưu và bắt đầu một chương mới của cuộc đời. Quyết định này, mặc dù bất ngờ với những người xung quanh, lại xuất phát từ một ước mơ giản dị-sống những ngày cuối đời an nhàn tại quê hương. Hai ông bà đã dành dụm được một khoản lương hưu kha khá, cộng thêm số tiền đầu tư từ kế hoạch lương hưu 401k, đủ để họ cảm thấy có thể an tâm sống thoải mái ở Việt Nam.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.