Hôm nay,  

Thầy Lân

21/02/202014:26:00(Xem: 3980)

 

Vừa vói tay muốn lấy cuốn sách đọc dỡ dang tối hôm qua để đọc tiếp, nhưng Phượng-Quỳnh vội dừng tay; vì nghe điện thoại reng. Phượng-Quỳnh vội chụp ống nghe, bước nhanh sang chiếc xa-lông nhỏ; vì ngại tiếng nói chuyện sẽ làm mất giấc ngủ của đứa cháu cưng. 


- Allo.


- Cho tôi được tiếp chuyện với bà Phượng-Quỳnh.


- Dạ, tôi là Phượng-Quỳnh. Xin ông cho biết quý danh?


Phượng-Quỳnh không nghe tiếng trả lời mà chỉ nghe một dòng âm thanh piano rộn rã. Phượng-Quỳnh nhận ra đây là nhạc sống chứ không phải nhạc băng cho nên cứ lắng nghe.


Từ đầu giây bên kia, tiếng nhạc vẫn vui tươi, rộn ràng, từ phân đoạn của bản nhạc này chuyển sang phân đoạn của nhạc khúc khác thật tài tình và chỉ đàn toàn nhạc ngoại quốc. Phượng-Quỳnh không thể đoán được trong số bạn hữu ai là người có ngón đàn piano đầy ma lực như vậy.


Càng lắng nghe tiếng đàn Phượng-Quỳnh càng cảm thấy nàng lạc hậu và quê mùa như một người chưa hề biết gì về âm nhạc; vì Phượng-Quỳnh không nhận ra được tựa đề cũng như âm giai của bản nhạc. Trong khi Phượng-Quỳnh tủi thân cho sự “tuột dốc” thảm hại của nàng thì từ đầu giây bên kia, theo tiếng đàn, một giọng nam cất lên. Mấy câu đầu Phượng-Quỳnh nghe không rõ vì giọng người hát hơi nhỏ. Sau cùng Phượng-Quỳnh nghe được “... Stronger than any mountain cathedral, Truer than any tree ever grew, Deeper than any forest primeval, I am in love with you...” (1) Lấy làm lạ, Phượng-Quỳnh lại lên tiếng “Allo” nhưng vẫn không ai trả lời. Phượng-Quỳnh đắn đo, không biết nên tiếp tục lắng nghe hay là gác ống nghe để đọc sách. Bất ngờ tiếng hát chuyển sang: “Ngày nào một giấc mơ. Đâu những đêm trăng mờ ai ngóng chờ…”(2) Phượng-Quỳnh ngẩn ngơ, không biết người bạn nào nghịch mà lại đàn và hát những tình khúc dễ thương đến như vậy! Phượng-Quỳnh lắng nghe cho đến câu cuối: “...hay đớn đau vì câu chờ kiếp sau. Trăng úa màu, lệ dâng ướt ngàn sao.”(3)  Không dưng Phượng-Quỳnh cảm thấy buồn và nhớ những ngày Danh và nàng yêu nhau. 


Ngày xưa, mỗi khi giận hờn hoặc hôm nào Danh không đến điểm hẹn là Phượng-Quỳnh tưởng như trái đất sắp ngừng quay/ngày tận thế sắp cận kề và tối đó thế nào Phượng-Quỳnh cũng thơ thẩn nhìn Trời mây rồi rơm rớm nước mắt, hát đi/hát lại hai câu này để nghĩ đến Danh. 


Tiếng hát ngưng. Phượng-Quỳnh nghe:


- Phượng-Quỳnh.


- Dạ, xin lỗi, ai đầu giây ạ?


- Lâu quá cho nên không nhận ra giọng, phải không? Lân đây. Lân ngày xưa dạy Lý-Hóa ở Võ-Tánh, nhớ không?


Phượng-Quỳnh vô cùng ngạc nhiên và bối rối, không biết nên xưng bằng “con” như ngày xưa hay là xưng bằng “em”. Nghĩ lại, Lân cũng không lớn hơn nàng nhiều cho nên đáp:


- Dạ, thưa Thầy, vì bất ngờ quá cho nên em không nhận ra. Em xin lỗi Thầy. Làm thế nào Thầy biết được điện thoại của em? 


- Cách nay mấy tuần, nhân buổi họp mặt cựu học sinh Võ-Tánh và Nữ Trung-Học, tôi gặp lại Nghi. Nghi hồi đó cùng học B4 với Phượng-Quỳnh, nhớ không? Tôi hỏi thăm Phượng-Quỳnh và Nghi cho tôi số điện thoại.


Vì tính hay quên, Phượng-Quỳnh không thể nhớ được nhiều chi tiết về Lân. Nhưng kể từ ngày Nghi, người bạn gái duy nhất cùng lớp “B” với Phượng-Quỳnh ngày xưa, nói cho Phượng-Quỳnh biết ngày đó Lân để ý và có cảm tình với nàng thì Phượng-Quỳnh mới từ từ ôn lại khuôn mặt, vóc dáng, giọng nói và cử chỉ của Lân. 


- Thưa Thầy, khi nói chuyện, em nhận ra giọng của Thầy; nhưng khi Thầy hát – nhất là khi Thầy hát tiếng Anh – em cứ ngỡ là ông Mỹ nào đang hát. 


Lân cười. Phượng-Quỳnh tiếp:


- Thầy cho em hỏi một câu, được không ạ?


- Vâng, cứ nói chuyện tự nhiên. Nếu Phượng-Quỳnh tiếp tục gọi tôi bằng Thầy, tôi sẽ gọi Phượng-Quỳnh bằng... bà đó.


- Thưa Thầy, em quen rồi, đổi không được. Thưa Thầy, Thầy học piano từ hồi nào? Em nhớ, ngày xưa, Thầy không chơi đàn mà.


Lân im lặng. Ngày xưa, mỗi khi trường Võ-Tánh tổ chức văn nghệ tại rạp Tân-Quang/Việt-Quang/Tân-Tân hoặc trên sân khấu lộ thiên nơi bãi cát phía sau trường, Lân cứ thầm nôn nóng mong chóng đến phần văn nghệ do Phượng-Quỳnh phụ trách. Khi nghe xướng ngôn viên giới thiệu Phượng-Quỳnh, Lân hồi hộp, sửa lại dáng ngồi. Phượng-Quỳnh ôm accordéon bước ra sân khấu, tươi cười, cúi chào khán giả. Nhìn Phượng-Quỳnh độc tấu những nhạc khúc ngoại quốc, Lân cảm thấy Phượng-Quỳnh trên sân khấu và Phượng-Quỳnh, cô học trò duyên dáng, đẹp tự nhiên và rất ít nói “của chàng” không phải là một. Lân tự hỏi không hiểu Phượng-Quỳnh có biết chàng đang chú tâm theo dõi từng cử chỉ của nàng – một hành động mà Lân cố tình giấu kín mỗi khi bước vào lớp B4 – hay không. Khi Phượng-Quỳnh đàn cũng như khi Phượng-Quỳnh hát, Lân cảm nhận được những xao xuyến/ những rung động/những ước mơ đang dâng lên trong lòng. Lân thầm mong sẽ tạo cơ hội để Phượng-Quỳnh nhận biết được tình cảm của chàng dành cho nàng. Nhưng, suốt mấy năm dạy Phượng-Quỳnh ở các lớp đệ nhị cấp, Lân chỉ thấy nàng vô tư như trẻ thơ và ngây thơ cho đến độ chưa biết làm dáng và chưa biết chưng diện như các bạn cùng lứa, cho nên chàng vẫn dè dặt.


Sau khi Phượng-Quỳnh và Nghi rời Võ-Tánh, vào Saigon học Luật, nhiều lần Lân tự trách tại sao chàng quá kín đáo/đắn đo/rụt rè? Nhưng không kín đáo/đắn đo sao được khi mà nền đạo lý Á-Đông còn quá khắc khe đối với những người chọn ngành mô phạm!


Gặp lại Phượng-Quỳnh khi nàng trở lại thăm trường cũ, thấy Phượng-Quỳnh có vẻ bạo dạng hơn trước, Lân vui thầm. Chàng hy vọng sẽ tạo cơ hội gặp lại Phượng-Quỳnh. Nhưng khi Lân vào lớp – lớp cũ của Phượng-Quỳnh và Nghi – trên lầu, nhìn xuống cổng chính, thấy Phượng-Quỳnh thướt tha đến bên một thanh niên đang ngồi chờ trên Vespa rồi nàng ngồi vào yên sau thì niềm hy vọng của Lân tan đi! Về sau Lân mới biết người lái Vespa hôm đó là Danh – một người bạn lớn lên cùng thành phố với Lân.


Từ hôm đó, ý nghĩ “đi lính” cứ lãng vãng trong lòng Lân; vì Lân cảm thấy buồn về mối tình đơn phương. Nhưng rồi Lân tìm được một giải pháp khác hay hơn để xoa dịu niềm thất vọng. Chàng học piano để được đàn những bản nhạc mà Phượng-Quỳnh đã đàn/đã hát; và cũng để có cơ hội được trút xuống phím piano nỗi buồn thầm kín trong lòng. Vì vậy Lân đáp:


- Tôi học piano lâu rồi. Nhưng piano dễ, không phải mang vào người như accordéon của Phượng-Quỳnh.


- Dạ, em không nhớ tại sao ngày đó em lại chỉ thích đàn accordéon thôi.


Nói ngang đây Phương-Quỳnh vội cải chính:


-Ô, thưa Thầy, em nhớ rồi.


-Nhớ gì?


-Em thích accordéon vì hình ảnh của Dean Martin trong những phim ca nhạc. Thầy nhớ Dean Martin không, thưa thầy?


-Nhớ chứ sao không. Dean Martin không những đàn hay mà hát cũng tuyệt vời.


-Dạ. Em thích anh chàng đó lắm.


Lân chuyển đề tài:


- Phượng-Quỳnh và Danh vẫn khỏe chứ?


- Dạ, cảm ơn Thầy. Thầy muốn nói chuyện với anh Danh, phải không ạ?


- Tôi mới gặp Danh tại phi trường Los Angeles cách nay khoảng hơn một tháng, đã thăm hỏi nhau rồi. Tý nữa sẽ nói chuyện thêm với Danh, bây giờ nói chuyện với Phượng-Quỳnh, có chi trở ngại không?


- Dạ, thưa Thầy, không.


- Phượng-Quỳnh dạo này chắc đàn tuyệt lắm, phải không?


Phượng-Quỳnh cảm thấy khó thở như ai vừa “đấm” vào ngực nàng! Phải vài tích tắc sau Phượng-Quỳnh mới đáp được:


- Thưa Thầy, em bỏ đàn từ mấy mươi năm nay rồi!


- Hả? Phượng-Quỳnh nói gì?


Phượng-Quỳnh lập lại câu nói. Cả hai cùng im lặng. Nén tiếng thở dài, Lân hỏi:


- Tại sao vậy, Phượng-Quỳnh?


- Dạ, vì “ông bạn” của Thầy không thích.


Im lặng. Tiếng piano “rơi” nhè nhẹ/rời rạc/văng vẳng. Một lúc lâu Lân hỏi:


- Danh nói thẳng với Phượng-Quỳnh là Danh không thích Phượng-Quỳnh đàn hay sao? Tôi nghĩ ngày đó Danh biết Phượng-Quỳnh chơi đàn mà, phải không?


- Dạ, ngày đó anh ấy biết em chơi đàn nhưng về sau anh ấy thay đổi, làm sao em biết được. Anh ấy không nói thẳng với em; anh ấy chỉ nói những câu khó chịu, em không thích nghe cho nên em bỏ đàn luôn để anh ấy không có cơ hội dùng những câu đó với em nữa. Còn Thầy, cô có thích Thầy đàn và viết hay không?


- Nhà tôi và tôi không còn sống với nhau từ lâu rồi.


Phượng-Quỳnh thoáng giật mình. Lần Phượng-Quỳnh về Việt-Nam cách nay hai năm, vào hôm họp mặt bạn hữu, các bạn cho Phượng-Quỳnh biết tin thầy Lân trở về đời sống độc thân, nhưng vì tính hay quên, Phượng-Quỳnh không nhớ. Phượng-Quỳnh chỉ nhớ các bạn “nhao nhao” hỏi nàng là tại sao ngày đó không “chịu” thầy Lân? Phượng-Quỳnh đáp rất thật lòng: “Có biết Thầy để ý mình đâu mà chịu với không chịu?” Anh bạn cao lêu nghêu, ngày xưa ngồi bàn cuối, bảo: “Chính tôi nghe thầy Lân nói với thầy Hảo là Phượng-Quỳnh có nụ cười rất đầm và cái cằm chẽ đôi.” Phản ứng tự nhiên, Phượng-Quỳnh đưa tay sờ cằm. Cái lũng sâu nho nhỏ nhưng vô cùng duyên dáng ngay giữa cằm, ngày xưa đã làm mê mệt nhiều chàng trai, nay không còn nữa. Một cô bạn Huế, ngày xưa cùng trong ban văn nghệ với Phượng-Quỳnh, cười dòn: “Vô lý. Trong khi toàn trường ai cũng biết Thầy để ý ‘nhà ngươi’ mà tại răng ‘nhà ngươi’ lại không biết?” Phượng-Quỳnh ngẫn người, không biết nên buồn hay nên vui. Bây giờ nghe Lân hé lộ chuyện gia đình của Lân, Phượng-Quỳnh mới chợt nhớ:


- Dạ, em xin lỗi đã vô tình khơi lại chuyện buồn của Thầy.


- Có chi mà buồn. Đời là vô thường. Trở lại nguyên nhân Phượng-Quỳnh bỏ đàn. Danh nói như thế nào, Phượng-Quỳnh thử lập lại đại ý xem?


- Dạ, mỗi khi em đàn, anh Danh thường bảo: “Đờn gì mấy bài lạ huơ lạ hoắt, không ai biết mà cũng đờn; còn mấy bài như Lính Dù Lên Điểm, Anh Là Lính Đa Tình hay thấu Trời sao không chịu đờn? Đờn mà không ai hiểu, không ai biết thì đờn địch làm chi cho mất công? Dẹp đi cho rồi!”


Trong khi Lân nghẹn lời trước một câu nói phủ phàng như vậy thì Phượng-Quỳnh lại liên tưởng đến những câu nói khác, cũng của Danh. Vào những dịp họp mặt bằng hữu, thấy Phượng-Quỳnh được bạn hữu tỏ ra thương mến hoặc khen ngợi bao nhiêu thì trên đường về nhà Danh cũng nói những lời độc hại, làm tổn thương Phượng-Quỳnh bấy nhiêu! Mỗi khi biết Phượng-Quỳnh nghe nhạc ngoại quốc, Danh “xì” một tiếng rồi bảo, nghe chi ba thứ nhạc đó, bộ mất gốc rồi hả? Nếu nhạc bán cổ điển hoặc nhạc hòa tấu hay độc tấu, Danh bảo, nghe thứ nhạc gì mà toàn đờn không, buồn ngủ thấy bà. Phượng-Quỳnh nghe Smooth Jazz, Danh bảo, thứ đồ nhạc của tụi đen mà cũng nghe. Khi thấy Phượng-Quỳnh trang điểm, Danh bảo, “bôi quẹt” để làm gì? Trẻ trung gì nữa mà bày đặt. Phượng-Quỳnh còn nhớ, ngày nàng mới sinh xong đứa con đầu lòng, Danh “dằn mặt”, gần “băm” (ba mươi) rồi, không còn trẻ nữa đâu nghe, cô; Phượng-Quỳnh trên ba mươi, Danh bảo, gần nửa đời người rồi, còn gì nữa mà “bôi quẹt”; Phượng-Quỳnh trên bốn mươi là tuổi...về vườn! Phượng-Quỳnh mặc áo màu tươi, Danh quặu, bảo chồng con đầy đàn mà còn bày đặt chưng diện? Phượng-Quỳnh mặc áo màu đậm, Danh lại bảo: Mặc mấy màu gì quê mùa quá vậy? Khi bắt gặp Phượng-Quỳnh gửi check mua báo dài hạn, Danh bảo, tiền cô không biết xài vào đâu hay sao mà mua báo dài hạn? Sang quá mà! Báo người ta chất cả đống ngoài chợ, đi chợ sao không lượm về đọc mà lại mua? Giàu rồi đó! Phượng-Quỳnh nghiệm ra rằng, chưa bao giờ Danh hài lòng và cũng chưa bao giờ Danh không tìm cách chê bai/dè bỉm về những điều nàng làm! 


Nhiều khi Phượng-Quỳnh tự hỏi, tại sao nàng không thể quên được những câu cay độc, những điều xót xa do Danh đem đến mà nàng lại quên những điều tốt đẹp trong cuộc đời! Bây giờ chỉ lập lại cho Lân nghe một câu thôi mà Phượng-Quỳnh cũng vẫn còn cảm thấy tê tái trong lòng.


Lân hỏi:


- Rồi Phượng-Quỳnh trả lời như thế nào?


- Dạ, anh ấy không thích em đàn thì em bỏ, cho yên chuyện.


Đó cũng là một câu né tránh của Phượng-Quỳnh; vì thật ra nàng có phản ứng một cách ôn hòa. Nhưng Danh là một người đàn ông vũ phu. Khi nào bị Phượng-Quỳnh nói đúng tâm lý mà Danh không thể biện luận được, Danh sẽ đánh Phượng-Quỳnh không nương tay và nói những câu thô lỗ/nặng nề hơn nữa để nàng ngượng, không trả lời được, phải im. Phượng-Quỳnh muốn đi làm để khỏi lệ thuộc vào Danh. Danh phản đối dữ dội: “Tôi đâu có bỏ cô chết đói mà cô đòi đi làm để bỉ mặt tôi!” Phượng-Quỳnh đành im lặng, ôm trong lòng niềm thất vọng/nỗi chán chường về người đàn ông mà ngày xưa đã thề thốt và nói với nàng những điều không thật để du nàng vào con đường tình không lối ra!


Không những Danh luôn nói những điều không thật mà Danh còn có tài chối bừa, không sượng mặt. Phượng-Quỳnh vẫn nhớ, ngày đó, khi nào Phượng-Quỳnh “trúng” một “áp-phe” là Danh về nhà ngọt ngào, năn nỉ nàng trả giùm những món nợ do Danh “lầm lỡ” gây ra và Danh thề độc là sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Phượng-Quỳnh muốn đích thân nàng đem tiền đi trả để có dịp nói riêng với người bạn đó đừng cho Danh mượn tiền nữa. Dường như Danh hiểu dụng ý của Phượng-Quỳnh cho nên Danh không đồng ý. Danh bảo chàng mượn thì để chàng đem trả chứ Phượng-Quỳnh đem đến trả sẽ làm mất thể diện của chàng. Phượng-Quỳnh nhẹ dạ và vẫn còn tin tưởng Danh cho nên giao tiền cho Danh đi trả. 


Lần nào cũng vậy, Danh không đem tiền đi trả mà Danh dùng số tiền đó “rải” đều cho các em vũ nữ tại vũ trường, đưa các em ca sĩ vào những nhà hàng sang trọng và đem bồ đến sòng bài để chứng tỏ sự “chịu chơi” của Danh. Vài tuần sau, hết tiền, Danh lại nhắc Phượng-Quỳnh tại sao chưa trả những số nợ đó? Phượng-Quỳnh bảo: “Em đưa cho anh đem đi trả rồi mà.” Danh nhìn thẳng vào mắt Phượng-Quỳnh rồi chối tỉnh bơ: “Đưa hồi nào?Em cứ đòi chính em đem tiền đi trả chứ em đâu chịu đưa cho anh. Tính em hay quên rồi em đổ thừa.” Phượng-Quỳnh tự biết tính nàng hay quên cho nên nửa nghi nửa ngờ, đành im. Lâu dần, sự lừa dối trắng trợn và sự đổ thừa đầy dã tâm của Danh cứ được Danh lập đi lập lại hoài khiến Phượng-Quỳnh đâm ra lo sợ/hoài nghi/không tin bất cứ một người nào và cũng không còn tin tưởng vào chính nàng nữa. 


Mãi đến khi sang Mỹ, Phượng-Quỳnh mới biết, vì Danh mà nàng bị Obsessive Compulsive Disorder!


Riêng Lân, chàng biết Phượng-Quỳnh là một cô gái hiền lành cho nên Lân không ngạc nhiên vì câu nói của nàng mà chỉ cảm thấy xót xa/cay đắng trong lòng. Tự biết chàng không nên nói gì trong lúc này, Lân im lặng.


Phượng-Quỳnh nghe tiếng thở dài của Lân rồi từng tràng hợp âm trầm vang xa. Chỉ một thoáng thôi, tràng hợp âm đó trở nên cuồng loạn. Phượng-Quỳnh có cảm tưởng như Lân đang trút tất cả tức giận của chàng lên phím đàn. Một lúc sau, có lẽ đã bình tâm trở lại, Lân chuyển sang một nhạc khúc êm dịu/thiết tha. Trong lúc Phượng-Quỳnh còn nhíu mày, cố nhận ra dòng nhạc thì giọng Lân khe khẻ: “Hay quá! Đoạn này chuyển sang Mineur, tuyệt quá!” Câu nói của Lân khiến Phượng-Quỳnh đau đớn/tủi buồn nhận ra sự “dốt nát” của nàng sau mấy mươi năm xa lìa địa hạc âm nhạc! Câu nói của Lân cũng khiến Phượng-Quỳnh nhớ đến ông Ngữ – thân phụ của nàng.


Ngày xưa, nhiều khi đang đàn, Phượng-Quỳnh nghe tiếng dép lẹc xẹc rồi giọng ông Ngữ: “Con! Con đàn lại đoạn đó cho Ba nghe.” Phượng-Quỳnh ngạc nhiên: “Ủa, con đàn sai, phải không, Ba?” Ông Ngữ khoác tay: “Không. Không phải. Ba muốn nghe lại vì đoạn đó chuyển sang Mi Mineur tuyệt quá. Sự chuyển âm đột ngột này tụi Tây gọi là...” Ông Ngữ tuôn một tràn tiếng Pháp mà đến nay không thể nào Phượng-Quỳnh nhớ được! Bây giờ nghe Lân nói một câu tương tự, Phượng-Quỳnh nhớ Cha và thương cho công khó của người Cha đã dạy nàng đàn. Tủi thân, Phượng-Quỳnh gục mặt vào lòng bàn tay, muốn khóc nhưng khóc không được! 


Trước sự hủy diệt của thời gian và luật vô thường, Phượng-Quỳnh bất lực, đã đành; còn trước sự hủy diệt có chủ tâm của một người đàn ông dành cho nàng tại sao Phượng-Quỳnh cũng cúi đầu câm lặng suốt mấy mươi năm qua? Nhiều khi Phượng-Quỳnh nghĩ rằng nàng hèn. Nhưng không hèn sao được khi mà Phượng-Quỳnh – vì danh dự gia đình/vì tự ái cá nhân – không muốn ai biết được sự nhầm lẫn của nàng. Phượng-Quỳnh không muốn các con không có cha và cũng vì Phượng-Quỳnh được nuôi dạy theo “nền đạo lý thánh hiền(!) Con gái mười hai bến nước; trong nhờ, đục chịu!” 


Không muốn nhớ lại những chuyện buồn xưa, Phượng-Quỳnh nghĩ cách chuyển đề tài. Chợt nhớ đến tác phẩm Lân viết cách nay gần nửa thế kỷ, Phượng-Quỳnh hỏi:


- Dạ, thưa Thầy, Thầy còn giữ tác phẩm Nỗi Buồn Ngày Tháng Cũ không, thưa Thầy?


- Tuyệt bản rồi. Phượng-Quỳnh thích cuốn đó à?


- Dạ.


Im lặng. Lân thở dài, nhớ lại buổi sáng Chủ Nhật năm xưa, Lân buồn buồn đi dọc bờ biển thì gặp Phượng-Quỳnh và Danh đẩy chiếc xe có em bé gái nằm ngủ bên trong. Lân và Danh vồn vã bắt tay, chuyện trò nhưng trong lòng Lân lại vang lên nhiều câu tự trách. Như không thể chịu đựng được lâu hơn nữa trước một thực thể không thể cứu vãng, Lân lấy từ cặp-táp cuốn Nỗi Buồn Ngày Tháng Cũ vừa mới xuất bản, viết: “Tặng Danh và Phượng-Quỳnh với những kỷ niệm ấu thơ còn đó” rồi vội vã chào tạm biệt. Bắt tay từ giã Lân, Danh hỏi: “Lâu ngày mới gặp lại, chưa kịp thăm hỏi gì cả thì mày đòi đi. Đi đâu mà vội vậy?” Lân cười buồn: “Tao đi bắt… con giã tràng!”


Thời đó, nghe câu trả lời đầy cay đắng của Lân rồi đọc nét chữ quen thuộc của Lân, Phượng-Quỳnh không nghĩ gì xa xôi. Nhưng sau khi nghe Nghi rồi các bạn bên Việt-Nam kháo nhau, Phượng-Quỳnh mới ngẫm nghĩ lại và nàng nhớ một câu trong tác phẩm đó. Phượng-Quỳnh muốn nhân cơ hội thân mật này hỏi Lân xem đó là sự trùng hợp hay có điều gì khác.


- Thưa Thầy, có một câu trong tác phẩm Nỗi Buồn Ngày Tháng Cũ mà em cứ thắc mắc, vì không hiểu được dụng ý của tác giả. Thầy cho phép em hỏi Thầy câu đó, được không ạ?


- Hỏi đi.


- Thưa Thầy, em không nhớ trang mấy, nhưng trong truyện ngắn đầu tiên, có đoạn: “...Điệp là con ông Ngữ ở Nha-Trang. Điệp có nụ cười rất đầm và cái cằm chẻ đôi...” Ông Ngữ là tên của Ba em còn Điệp là ai, thưa Thầy?


Lân giật mình, không ngờ một chi tiết nhỏ như vậy mà Phượng-Quỳnh còn nhớ. Như vậy có thể Phượng-Quỳnh đã biết được tình yêu đơn phương của chàng? Suốt mấy mươi năm qua – kể cả thời gian Lân sống hạnh phúc với vợ con – chưa bao giờ hình dáng của Phượng-Quỳnh phai nhòa trong tâm trí chàng. Gần đây, hình dáng của Phượng-Quỳnh càng rõ nét hơn vì Lân nghe học trò cũ, cũng như Nghi, cho biết Phượng-Quỳnh trải qua rất nhiều đau khổ và luôn luôn sống trong sự chịu đựng dai dẳng/nặng nề. Nghe như vậy, Lân động lòng, muốn tìm cách an ủi Phượng-Quỳnh. Nhưng khi biết dường như Phượng-Quỳnh đã lờ mờ nhận ra được tình cảm của Lân đối với nàng thì Lân lại ngại. Sự mâu thuẫn này cũng như sự nhút nhát khi xưa khiến Lân đáp không kịp suy nghĩ:


- Thôi. Thôi. Cấm, không cho hỏi nữa; để tôi đàn tiếp cho mà nghe. 


Phượng-Quỳnh cười. Lân tiếp:


- Ngày đó Phượng-Quỳnh đàn, nhiều người chết vì Phượng-Quỳnh. Bây giờ tôi đàn, không biết có chinh phục được một người hay không!


Phượng-Quỳnh lại cười, rất bằng lòng khi biết được sự nghi ngờ của nàng cũng như những lời “nhao nhao” của nhóm bạn xưa đã được Lân xác định một cách gián tiếp. 


Lân cũng rất vui khi hiểu được rằng, một phần nào đó, Phượng-Quỳnh đã biết được tình yêu thầm kín Lân đã dành cho nàng. Lân lướt nhẹ và rất nhanh mấy ngón tay của bàn tay phải lên phím đàn rồi tay trái hòa vào, tạo nên dòng Tango rộn rã. Vừa đàn Lân vừa hỏi:


- Phượng-Quỳnh nhớ bản này không?


- Dạ, không.


- Hồi đó Phượng-Quỳnh thường đàn bản này lắm mà.


Phượng-Quỳnh lại muốn khóc vì nàng vẫn không nhớ được! Phượng-Quỳnh nhìn hai bàn tay của nàng đã nhăn nhúm, rồi nhìn đứa cháu nội đang nằm ngủ nơi ghế xa-lông. Mỗi cuối tuần mới giữ cháu được một lần vậy mà Phượng-Quỳnh cũng nhận ra con bé lớn nhanh quá. Càng lớn con bé càng mủm mỉm và càng giống Phượng-Quỳnh; vì sóng mũi cao, thẳng và cái lúm sâu giữa cằm. Nhiều người bạn vô tình khen; “Con bé xinh quá, trông giống Bà Nội ghê.” Không thể nào im lặng  khi phải nghe một lời khen như vậy, Danh “phản pháo” liền: “Con nhỏ này mà xinh gì, đừng có nịnh.” Các bạn nhìn Phượng-Quỳnh, chờ đợi sự phản ứng của nàng. Phượng-Quỳnh chỉ cười lạc, nói lơ chuyện khác.


Vì bị phân tâm, Phượng-Quỳnh không thể biết được Lân đã chuyển sang nhạc khúc khác. Lân hỏi:


- Bản này, nhận ra không?


- Dạ, em nhận ra nhưng em không nhớ tựa và tác giả.


- Trời! Liszt! Franz Liszt. Ngày đó Franz Liszt là “ruột” của Phượng-Quỳnh mà sao nay vô tình quá vậy?


- Ô, em nhớ rồi. Liebestraum.


Phượng-Quỳnh xúc động quá, ngồi bệt trên thảm, để tâm hồn quyện theo dòng âm thanh dịu dàng/thiết tha/trầm thống/đầy u uất của tình khúc được viết theo âm giai Do Majeur, thể điệu Tempo di Valse. Theo dòng âm thanh phù thủy của Lân, Phượng-Quỳnh tưởng như nàng có thể thấy lại dáng vóc cao, gầy và nét mặt nghiêm nghị của Lân mỗi khi Lân chạy Vespa vào cổng chính của trường trong khi Phượng-Quỳnh cùng các bạn đi vào bằng cổng nhỏ bên cạnh. 


Lân khen:


- Giỏi. Vậy Phượng-Quỳnh còn nhớ mối tình vương giả của Liszt không?


Một lần nữa Phượng-Quỳnh lại cảm thấy hụt hẫng như một bà nhà quê đi thi vào quốc tịch Mỹ, bị hỏi, hãy nói tên vị tổng thống Hoa-Kỳ có liên hệ trong cuộc đổ bộ vào vịnh Con Heo (Bay of Pigs) tại Cuba :


- Dạ, em không nhớ. Em chỉ nhớ, ngày xưa Ba em đã kể cho em nghe về mối tình không trọn của Franz Liszt nhưng em không nhớ là với ai.


- Với công nương Carolyne Sayn Wittgenstein.


Lân vừa đáp vừa tiếp tục đàn. Phượng-Quỳnh im lặng, chăm chú nghe. Một lúc sau, Lân ngưng đàn, bảo:


- Bây giờ Phượng-Quỳnh cho tôi nói chuyện với thằng bạn già của tôi một chốc, nhé!


- Thưa Thầy, anh Danh không có ở đây.


- Bao giờ Danh về để tôi gọi lại?


Phượng-Quỳnh không biết phải đáp như thế nào. Nói dối thì khó, vì không biết phần nào nên dối, phần nào nên thật; mà nói thật thì ...nói những gì? 


Nhận ra được điều không ổn, Lân dục:


- Phượng-Quỳnh.


- Dạ.


- Có gì trở ngại, phải không?


- Dạ không. Thưa Thầy, lúc nãy Thầy bảo rằng Thầy đã gặp anh Danh cách nay hơn một tháng, tại phi trường Los Angeles, đúng không, thưa Thầy?


- Vâng.


- Thưa Thầy, hôm đó anh Danh có nói gì nhiều với Thầy hay không?


- Không. Danh chỉ bảo là Danh được một công ty lớn của Mỹ chỉ định qua Việt-Nam điều nghiên về việc đầu tư cả mấy tỷ Mỹ kim.


Phượng-Quỳnh tròn mắt, vội đưa tay che miệng để khỏi thốt ra tiếng than “Trời!”


Từ ngày Danh, Phượng-Quỳnh cùng các con vượt biển sang đây, chỉ sống nhờ vào ngành bán tạp hóa. Lúc đầu vợ chồng làm cho công ty 7-11; sau, hai vợ chồng để dành được ít tiền rồi vay thêm ở ngân hàng, sang được một tiệm, tự làm chủ. Gần đây Danh năn nỉ Phượng-Quỳnh nên bán tiệm tạp hóa, về hưu non cho khỏe, có thì giờ đi chơi và lo cho cháu. Hơn nữa dạo này tiệm của mấy người bạn bị cướp hoài, Danh ngại rủi thằng khùng nào vào cướp rồi “thảy cái bùm” thì uổng cuộc đời. Phượng-Quỳnh đồng ý vì thấy đề nghị của Danh rất hợp lý. Với luận điệu ra giá cao khó bán, lại phải trả tiền thuê chỗ, Danh ra giá rất hạ để bán cho nhanh. Phượng-Quỳnh cứ nghĩ rằng Danh đã có tuổi, có lẽ Danh đã hồi tâm, thật lòng muốn vợ chồng cùng sống già bên nhau cho nên Phượng-Quỳnh không cản trở gì cả.


Bán tiệm xong, Danh nằn nặc đòi về Việt-Nam thăm Mẹ. Phượng-Quỳnh muốn cùng về với Danh. Nhưng Danh nêu nhiều lý do, nhất là lý do Phượng-Quỳnh đã về cách nay hai năm rồi, về làm chi nữa, tốn tiền, rồi bỏ cháu không ai lo. Danh hứa chỉ về hai tuần rồi trở qua.


Sau khi Danh về Việt-Nam, Phượng-Quỳnh mới vô tình khám phá mối-tình-i-meo (e-mail) giữa Danh và một cô gái bên Việt-Nam, trẻ bằng tuổi cô con gái út của Danh. Hai người thề ước nặng lời. Không thể nào Phượng-Quỳnh quên được một câu Danh “gõ” cho cô đó: “Em đừng lo. Theo luật của tiểu bang này, hễ vợ chồng không còn chung sống với nhau hơn sáu tháng là kể như...xù. Bằng mọi cách anh sẽ về bên em để em giúp anh tìm lại tuổi thanh xuân mà người vợ miệt vườn của anh đã không tạo được cho anh lúc anh còn trẻ.” Phượng-Quỳnh không cảm thấy đau khổ nữa, vì tâm hồn đã chai lỳ; nhưng Phượng-Quỳnh lo cho số tiền lớn vừa mới bán tiệm tạp hóa – đang “nằm” trại ngân hàng.


Phượng-Quỳnh tức tốc ra ngân hàng. Nữ trang và tiền mặt để trong Safe Deposit Box biến mất. Checking account chỉ còn hơn chín trăm đô-la; đó là tiền hưu của Phượng-Quỳnh mà chính phủ chuyển trực tiếp hằng tháng vào trương mục. Còn tiền hưu của Danh được Danh yêu cầu chuyển về địa chỉ nào đó, ngân hàng không thể tiết lộ. Các trương mục hưu bỗng IRAs và 401K của Danh đều bị đóng từ lâu.


Cố kềm nước mắt, Phượng-Quỳnh vội vàng đi ra cửa, chưa biết phải hành động như thế nào thì gặp Thúy – người quen ở trại tỵ nạn – từ ngoài đi vào. “Chị Danh! Chị làm gì mà mặt mày xanh lè, bộ tịch hớt hơ hớt hãi vậy?” Phượng-Quỳnh gượng cười, nói dối: “Ô, thưa chị. Anh chị khỏe chứ?Riêng tôi, trong người không được khỏe.” Thúy cười, ra vẻ bí mật: “Tụi tôi mới ở Việt-Nam về được mấy hôm. Tụi tôi gặp anh Danh bên đó.” Phượng-Quỳnh hơi mất bình tĩnh vì nàng cảm thấy xấu hổ nếu ai biết được việc làm thất đức của Danh: “Dạ, anh ấy về thăm bà cụ. Anh ấy sắp trở qua rồi.” Thúy háy nhẹ Phượng-Quỳnh: “Ở đó mà ảnh trở qua. Hôm gặp anh Danh, ảnh năn nỉ  tụi tôi đi ăn với ảnh để ảnh có thì giờ tâm sự. Anh Danh bảo chị lúc nào cũng cấm cản, canh giữ ảnh như canh tù. Suốt mấy mươi năm qua ảnh gắng chịu đựng để con cái yên tâm học hành. Bây giờ con cái lớn hết rồi mà chị cũng còn hành hạ ảnh như ngày xưa cho nên ảnh chịu không nổi. Ảnh bứt!...” Dường như Thúy còn muốn nói tiếp nhưng Phượng-Quỳnh hốt hoảng như muốn chạy trốn: “Dạ, nếu anh Danh chỉ nói bây nhiêu đó thôi thì tội của tôi cũng còn nhẹ. Xin lỗi chị, tôi phải đi có việc.” Bước vài bước, Phượng-Quỳnh quay lui, thấy Thúy nhìn theo nàng. Trong ánh nhìn của Thúy, Phượng-Quỳnh có thể đọc được rằng: Người gì thiếu lịch sự. Người ta “đem tin tức” cho mà không thèm nghe. Người như vậy chồng bỏ cũng đáng!


Sự việc xảy ra như vậy nhưng Phượng-Quỳnh không biết phải nói với Lân như thế nào, đành đáp:


- Thưa Thầy, chuyện của anh Danh như chuyện-dài-nhân-dân-tự-vệ ngày xưa, nói hoài không hết. Thôi, Thầy đàn tiếp cho em nghe, được không, thưa Thầy? 


Lân linh cảm được điều gì đó, rất mơ hồ, giữa Phượng-Quỳnh và Danh; nhưng Lân không thể đoán được. Nghe Phượng-Quỳnh yêu cầu, Lân hỏi:


- Phượng-Quỳnh thích nghe nhạc gì?


- Thầy biết rồi. Em chỉ thích nhạc tình cảm thôi.


Lân cười, dạo một đoạn ngắn rồi vừa đàn vừa hát: “Wise men say, only fools rush in. But I can’t help falling in love with you.” (4) Nhận ra đây là bản nhạc mà ngày xưa, mỗi khi cùng bạn hữu đến nhà quý Thầy dự tiệc, Lân thường mở dĩa nhạc cho khách nghe,  Phượng-Quỳnh xúc động dạt dào.


Tiếng đàn và giọng hát của Lân đưa tâm hồn Phượng-Quỳnh lìa khỏi thực tại đảo điên để trở về khung trời cũ; nơi có ngôi trường Võ-Tánh thân yêu; và cũng là nơi Phượng-Quỳnh lớn lên trong ngôi nhà có giàn hoa giấy nở rộ, màu đỏ thẫm. 


Dưới giàn hoa giấy đó, vào những đêm có phần ca nhạc của ban Tiếng Tơ Đồng, ông Ngữ thường nằm trên võng, ôm radio, nghe một mình. Cũng dưới giàn hoa giấy đó, không biết bao nhiêu lần Phượng-Quỳnh thấy Ngoại nằm trên võng, em của Phượng-Quỳnh nằm nghiêng mặt trên ngực của Ngoại để nghe Ngoại hát ru “...Ầu ơ...Chim quyên ăn trái khổ qua...hò ơi... nuốt vô, nuốt vô... (thì) sợ đắng...hò...hò ơi...(mà) nhả ra...(thì) bạn cười!...Hò.. ơi...Gió đưa, gió đưa cây cải về trời... Hò ơi! Rau răm ở lại...hò ơi...(rau răm ở lại).... chịu lời đắng cay!...” Nhớ đến những câu ca dao này Phượng-Quỳnh mới cay đắng nhận ra rằng nàng như con chim quyên khờ dại! Và Danh đã thành công khi “hóa kiếp” cho Phượng-Quỳnh thành loại rau răm, chỉ cam phận lủi mình vào bùn đất chứ không thể nào đơm những nụ hoa tươi thắm như  ngò, cải, tần ô!


Phượng-Quỳnh thở dài, bâng quơ nhìn giàn hoa giấy của nhà bên cạnh. Trong giây phút xúc động, Phượng-Quỳnh tưởng như nàng có thể  thấy được khuôn mặt của một thanh niên chờn vờn trên những cành hoa giấy đầy gai. 


Trong khi Phượng-Quỳnh không hiểu nàng bị lẫn lộn giữa hiện thực và quá khứ hay là nàng bị lẫn lộn giữa hình dáng của Lân ngày xưa và chân dung của Franz Liszt – trong hình vẽ của Istvan Oroszm – thì Lân đắm hồn vào dòng nhạc và lời ca. Lân muốn mượn lời ca gửi đến “ai đó” lời tự tình mà Lân đã âm thầm ấp ủ suốt mấy mươi năm dài: “...Take my hand, take my whole life too…” (5)


Theo tiếng hát ngọt ngào của Lân, Phượng-Quỳnh cảm nhận được niềm ước mơ vừa chớm dậy trong lòng. Phượng-Quỳnh hát nho nhỏ theo Lân: “For I can’t help falling in love with you…” (6) 


ĐIỆP-MỸ-LINH

http://www.diepmylinh.com/

1.-Longer của Dan Fogelberg..

2.-Ngày Nào Một Giấc Mơ của Ngọc-Bích.

3, 4, 5 và 6.-Can’t Help Falling In Love của George Weiss, Elvis Presley trình bày. 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hè năm ấy tôi dấn thân vào một việc mà kể từ nhỏ tới lớn tôi chưa từng làm. Dĩ nhiên là không có tý kinh nghiệm nào và vô cùng mạo hiểm. Nhưng người xưa có câu “đói thì đầu gối cũng phải bò”. Thôi kệ phải liều, biết đâu “không thành công, cũng thành nhân”. Sống là trải nghiệm mà...
Mỗi lần đi mua quà cho ai đó, kể cả quà Giáng Sinh, tôi thường bị tẩu hoả nhập ma, có khi đi cả buổi chẳng mua được gì. Chọn quà tân gia càng khó hơn, tôi đi hết tiệm này qua tiệm khác, suy nghĩ về “gia chủ” để đoán xem họ thích quà loại nào, cuối cùng tôi cũng phải chọn một món khi trời đã quá trưa...
Có nhiều lý do để tôi không thích và thường tránh né khi phải lái xe vào khu trung tâm thành phố. Một trong lý do chính là hầu hết các con đường trong trung tâm thành phố trên toàn nước Mỹ đều là đường một chiều...
Có một Ông Già Noel như thế, mang họ Nguyễn trên đất nước Hoa Kỳ này. Không rõ tôi gọi như thế có bị xem là sai phạm luật đạo gì không, vì tôi không phải tín đồ Công Giáo, nên những so sánh văn chương có thể không thích nghi với luật đạo. Nhưng, nếu gọi Ông Già Noel là người mang những món quà yêu thương tới cho những người tội nghiệp trên trần gian này, thì ông cụ họ Nguyễn đó còn mệt nhọc hơn nữa, vì trong hơn hai thập niên, ngày nào cũng là ngày để ông tặng quà yêu thương, nghĩa là, ngày nào ông cũng thấy là ngày Lễ Giáng Sinh và ông hóa thân ra thành 365 Ông Già Noel để bận rộn trọn năm (Đúng ra, nên trừ các ngày cuối tuần mới chính xác, nhưng như thế là chẳng văn chương gì cả).
Mùa Đông năm 1975 gia đình tôi dự Lễ Giáng Sinh đầu tiên trên đất Mỹ. Tôi nhớ rất rõ đêm Giáng Sinh đó, hình ảnh đó cho đến ngày hôm nay, gần 50 năm sau vẫn hiện ra rõ rệt...
Năm 1954 và 2024 là hai năm đánh dấu 70 năm ngày đất nước chia đôi, dòng sông Bến Hải đã làm biên giới giữa hai miền. Miền Bắc thuộc về Cộng Sản, miền Nam là vùng Quốc Gia tự do...
Ông già đi vào phòng ngủ. Hai cái gối ở đầu giường ngểnh cổ nhìn ông. Ông nheo mắt nhìn lại chúng nó. Hình như cái gối của ông còn nhoẻn miệng cười. Còn cái gối của vợ ông thì nheo một con mắt, cái kiểu đá lông nheo của cô gái nghịch ngợm. Ông khẽ lắc đầu. Và ông nhắm chặt hai mắt. Loay hoay một hồi, ông ra phòng khách, nhìn trước nhìn sau. Cái ti vi dán vào vách tường nhìn ông dò hỏi. Ban nãy ông đã tắt tiếng, chỉ để hình nên ông không hiểu nó muốn nói gì.
Tôi thích hai chữ “Xóm Đạo” để chỉ một khu dân cư gồm toàn những người theo Ki Tô giáo sống chung, sinh hoạt với nhau chung một niềm tin. Xóm Đạo không nằm giữa lòng đô thị, không phố xá nhà cao cửa rộng, không có tiếng xe cộ ồn ào, không có đường lớn, không chợ búa đồ sộ bán buôn tấp nập…
Thập niên 50 thế kỷ trước, ở quê tôi không hề thấy những Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo, chỉ rải rác vài chùa Phật giáo, đa số là các Thánh thất Cao Đài ở nhiều xã trong quận. Những năm học tiểu học, 1956-61, mỗi năm đi học được nghỉ lễ “Bấc” một tuần, cứ ngỡ là gió bấc...
Không hiểu sao Ông Già Noel lại đọc được tất cả thư của trẻ em trên khắp thế giới! Vậy Ông là ai? Ông có thật hay không? Nhà của Ông ở đâu? Đó là những câu hỏi quá quen thuộc mà các bé vẫn đặt ra, làm cha mẹ của các bé khó trả lời, có chăng là những câu trả lời để tránh làm các bé thất vọng...
Nhà vẫn đơn côi bên bờ sông. Gió về mở hội từng đêm. Đom đóm về thắp đèn. Ánh sáng lập lòe dọi qua cánh màn mỏng ngả màu vàng như quả dưa gang. Mẹ Thời ngồi đó trông ra, chiếc quạt để đầu giường. Bà lấy tay xua xua những con muỗi. Thằng Đắc đã viết gì về chưa con? Chưa mẹ ạ, có gì con sẽ báo. Mà mẹ cũng đừng nghĩ ngợi nữa, tuổi này ta sống thế này có phải vui không? Sau tiếng vui, Thời huýt một đoạn sáo gợi lên những ca từ dí dỏm lắm trong một bài hát, tiếng sáo đi xa tận ngõ, nghe được cả tiếng cá đớp ở con lạch cạnh bờ sân chạy vào. Mẹ Thời thở mạnh một cái, nó buồn hay vui bà đâu biết.
Trên vùng đồng bằng im lặng, những người chăn cừu bước đi một cách nghiêm trang, mang những lễ vật khiêm tốn của mình đến dâng cho Chúa Hài Đồng...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.