Bài viết được đăng trên trang Economist ngày 6 tháng 10 năm 2022.
SINGAPORE – Có vẻ như vận may đã mỉm cười với Bilce Tan, người đàn ông Malaysia 41 tuổi. Ông đã bị mất việc trong đại dịch và mất hàng tháng trời để tìm việc làm. Sau đó, vào tháng 5, một cơ hội tuyệt vời đã đến với ông. Sau nhiều cuộc phỏng vấn, một công ty Malaysia mời ông làm trưởng phòng phát triển kinh doanh tại văn phòng ở Sihanoukville, một thị trấn du lịch ở Campuchia. Công ty hứa hẹn sẽ trả lương 12,000 ringgit (khoảng 2,588 đô la) mỗi tháng – cao hơn nhiều so với những gì ông có thể kiếm được ở Malaysia. Kèm theo đó là được ăn ở miễn phí tại một khu chung cư, có cả phòng tập thể dục. Dĩ nhiên, Tan nhận công việc này.
Không lâu sau khi đến Sihanoukville, Tan bắt đầu cảm thấy bất an. Tại khu nghỉ mát nơi họ đặt văn phòng làm việc, các vệ sĩ có vũ trang tuần tra gắt gao. Những bức tường thì bị giăng đầy thép gai. Trong quá trình đào tạo, Tan được hướng dẫn cách làm sao để lừa đảo trực tuyến online. Ông phản đối, họ chỉ nhún vai nói rằng ông sẽ chẳng thể trốn thoát khỏi nơi đó. Tan đã bị mắc bẫy.
Câu chuyện của Tan không phải là hiếm. Trong vài năm qua, hàng chục ngàn người Châu Á đã bị lừa đến các sòng bạc và khu nghỉ dưỡng ở Campuchia, Lào và Myanmar, để rồi phát hiện ra rằng “công ty thuê” họ thực chất là hang ổ tội phạm, chúng ép buộc “ma mới” phải làm những việc bất hợp pháp – làm việc trên những trang cờ bạc hoặc lừa đảo trực tuyến online.
Bọn chúng rất tinh vi. Tan được giao cho các tài khoản mạng xã hội giả, mười cái điện thoại di động, danh sách “con mồi” cùng với thông tin về tài sản, mối quan hệ, trình độ học vấn của họ, cũng như các kịch bản phù hợp với đủ loại con mồi khác nhau. Chúng dạy ông cách làm sao để lừa được những người dễ bị tổn thương, như những người hưu trí và cha, mẹ đơn thân, bằng cách trò chuyện với họ hằng ngày.
Chúng cũng cung cấp cho Tan hàng loạt hình ảnh và video để “tô vẽ” lên những câu chuyện đằng sau nhiều nhân vật ông phải đóng giả. Khi “con mồi” bắt đầu tin tưởng, trò lừa đảo thực sự bắt đầu. Thay vì yêu cầu chuyển tiền trực tiếp, như truyền thống, Tan sẽ “rủ rê” nạn nhân gửi tiền vào một nền tảng đầu tư do bọn tội phạm thao túng. Số tiền gửi sẽ ngày càng lớn. Thường thì ban đầu, chúng sẽ “nhả” cho nạn nhân thực hiện thành công các khoản rút tiền nhỏ nhỏ. Để họ hài lòng và tin tưởng nền tảng này là hợp pháp, nạn nhân sẽ gửi thêm tiền nhiều hơn. Sau đó, một ngày đẹp trời nào đó, nhân vật “giả tưởng” sẽ “bốc hơi,” để lại cho nạn nhân sự khó hiểu và suy sụp. (Tan khẳng định ông chưa bao giờ lừa được ai.)
Theo Global Anti-Scam Organisation, có 1,200 nạn nhân của các vụ lừa đảo tương tự đã bị lừa tổng cộng 250 triệu đô la. Còn theo công ty điều tra CipherBlade, vào năm ngoái, họ đã ghi nhận được khoản tiền lừa đảo mạng mà các nạn nhân báo cáo cho họ lên tới 500 triệu đô la. Tổng số thiệt hại của riêng năm 2021 có thể lên tới hàng chục tỷ đô la, vì có “phần lớn” nạn nhân không khai báo. Sử dụng các ước tính chính thức về quy mô và số liệu được báo cáo bởi lời khai của nhân chứng, International Justice Mission (IJM) tính toán rằng các tổ chức lừa đảo ở Campuchia đã thu về ít nhất 12 tỷ đô la mỗi năm từ các vụ lừa đảo trực tuyến.
Theo Jeremy Douglas thuộc Văn phòng Liên Hiệp Quốc về Ma túy và Tội phạm, thường thì các tổ chức lừa đảo này được cầm đầu bởi các băng nhóm người gốc Hoa, đôi khi chúng sẽ “bắt tay” với một số đối tác ở địa phương. Lúc đầu, bọn tội phạm đầu tư vào các sòng bạc – địa điểm lý tưởng để rửa tiền. Khi chính quyền Trung Quốc trấn áp nạn cờ bạc bất hợp pháp trong nước cách đây một thập niên, các tổ chức này đã chuyển hoạt động về phía nam, tìm tới những “mảnh đất màu mỡ” ở các vùng phía đông lộn xộn, vô trật tự của Myanmar và các địa điểm đặc khu kinh tế trên khắp Đông Dương, nơi chính quyền địa phương chẳng có mấy thẩm quyền.
Khi các biên giới bị đóng cửa do đại dịch bùng phát, các sòng bạc mất dần “khách quen,” hầu hết là người Trung Quốc. Vì vậy, chúng bắt tay nhau lên mạng và tạo ra một mạng lưới rộng lớn hơn, nhắm mục tiêu đến cộng đồng người Hoa ở nước ngoài và bất kỳ ai khác miễn có tiền, bất kể họ sống ở đâu. Chúng nhanh chóng chuyển hướng mục tiêu sang người Mỹ, người Úc, người Châu Âu và cả tầng lớp trung lưu ở Đông Nam Á. Nhưng để thu hút được nhiều nạn nhân, chúng sẽ cần có những “tay sai” rành về mạng và trực tuyến, có thể nói tiếng Anh hoặc các ngôn ngữ Đông Nam Á.
Và chúng “mở rộng lực lượng lao động” bằng cách lừa gạt những người như ông Tan. Một số nạn nhân sẵn sàng làm việc cho chúng, nhưng cũng có nhiều người phản đối không nghe theo. Theo chính phủ Campuchia, các tổ chức này tuyển dụng từ 80,000 đến 100,000 người nước ngoài. Hầu hết đều bị lừa sang Campuchia.
Những báo cáo đầu tiên về nạn buôn người xuất hiện trên các phương tiện truyền thông địa phương vào đầu năm 2021. IJM bắt đầu tiến hành các cuộc giải cứu vào tháng 4 năm đó, phối hợp với cảnh sát Campuchia và các đại sứ quán liên quan. Kể từ đó, các nhà ngoại giao nước ngoài ở Campuchia đã làm việc điên cuồng để cứu công dân mình ra. Một số nạn nhân được thả ra sau khi gia đình họ chịu trả hàng ngàn đô la tiền chuộc. Một số thì trốn thoát được. Thậm chí một số người tự nhảy ra khỏi ban công. Ít nhất 8 chính phủ các quốc gia Châu Á đã cảnh báo công dân cẩn trọng trước những cơ hội việc làm quá hời ở Campuchia.
Lúc đầu, chính phủ Campuchia “giả đui, giả điếc.” Nhưng vì áp lực từ Trung Quốc và các quốc gia khác ngày càng gia tăng, tháng trước, Thủ tướng Hun Sen đã tuyên bố đàn áp “cờ bạc bất hợp pháp,” một thuật ngữ chung chỉ những tội phạm liên quan đến sòng bạc. Kể từ đó, chính quyền ở Sihanoukville và thủ đô Phnom Penh đã tiến hành các cuộc truy quét, đột kích vào các “hang ổ” lớn nhất, bắt giữ hàng trăm người. Nhưng ngay cả khi Campuchia ra tay kiểm soát để ngăn chặn bọn lừa đảo mạng, chúng sẽ chỉ cần “dời ổ” đến các địa bàn khác “béo bở hơn” ở Lào hoặc Myanmar.
Tan là một trong những người may mắn được trở về Malaysia tự do và an toàn. Nhưng “may mắn” ở đây chỉ là cách Tan nghĩ theo kiểu “của đi thay người” mà thôi. Trước khi Tan trốn thoát, bọn chúng đã tịch thu thẻ ngân hàng và điện thoại của ông. Sau đó, chúng không cho Tan truy cập vào tài khoản ngân hàng nữa, để ngăn ông “rớ” vào khoản tiết kiệm cả đời của mình. Trước khi có cơ hội giải thích với vợ rằng mình đã bị bắt cóc, thì người vợ đã chặn số của Tan. Bọn chúng tung thông tin cá nhân của vợ Tan lên mạng. Làm cho bà tin rằng chồng mình phải chịu trách nhiệm và giờ bà chỉ muốn ly hôn. Tan đã thoát khỏi “lưới nhện.” Nhưng, cũng giống như nhiều nạn nhân khác trên khắp thế giới, ông cũng đã phải trả một cái giá quá đắt.
Gửi ý kiến của bạn