Hôm nay,  

Tưởng Niệm Thầy Nhất Hạnh: Đọc “Đạo Bụt Nguyên Chất”

27/01/202212:22:00(Xem: 1814)
blank

Tưởng Niệm Thầy Nhất Hạnh: Đọc “Đạo Bụt Nguyên Chất”
  

Nguyên Giác

  

Bài này được viết để tưởng niệm Thiền sư Nhất Hạnh (1926-2022), một vị Thầy lớn của Phật Giáo vừa viên tịch. Chủ đề chính của bài này sẽ bày tỏ lòng biết ơn Thầy Nhất Hạnh bằng cách dẫn ra để suy nghĩ về một bài kệ  trong sách “Đạo Bụt Nguyên Chất – Kinh Nghĩa Túc” ấn bản Đạo Tràng Mai Thôn 2011, do Thầy dịch và chú giải, và sẽ đối chiếu tương đương trong Tạng Pali.
 

Thầy Nhất Hạnh gọi Kinh Nghĩa Túc là Đạo Bụt Nguyên Chất vì bản Kinh này là một Kinh nhật tụng cho giới tu sĩ trong những năm đầu Đức Phật hoằng pháp, lúc đó phương pháp dạy thời kỳ này y hệt Thiền Trúc Lâm của Việt Nam, tập trung vào giáo lý Bát Nhã. Tất cả các bài kệ trong Kinh Nghĩa Túc đều sâu thẳm, đều chỉ thẳng tâm giải thoát, không nói gì về phương tiện. Tương đương với Kinh Nghĩa Túc là Phẩm thứ 4 (Atthaka Vagga – Phẩm Tám) trong Kinh Tập của Tạng Pali, và luận thư của Theravada ghi rằng các đương cơ 16 vị hỏi pháp Đức Phật, ngay sau khi  nghe Đức Phật trả lời liền tức khắc đắc quả A La Hán.
 

Tất cả các Kinh trong nhóm Kinh Nghĩa Túc đều uyên áo, bài kệ nào cũng đầy sức mạnh của chân lý, chỉ thẳng vào tâm giải thoát. Bài kệ phân tích nơi đây sẽ là bài Kệ 20 trong Kinh Chuyển Hóa Bạo Động và Sợ Hãi (Duy Lâu Lạc Vương Kinh) -- Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 16, Đại Tạng Tân Tu 198. Bài Kệ 20 Kinh Nghĩa Túc của Hán Tạng tương đương với bài Kệ 954 trong Kinh Tập của Tạng Pali (tất cả các liên kết mạng cần thiết đều để ở cuối bài này).

Bài kệ 20 do Thầy Nhất Hạnh phiên âm, và Việt dịch thành văn xuôi như sau.
 

Thượng bất kiêu hạ bất cụ
Trụ tại bình vô sở kiến
Chỉ tịnh xứ vô oán tật
Tuy thừa kiến cố bất kiêu.

Nhìn xuống không thấy hãnh diện, nhìn lên không thấy sợ hãi, vị mâu ni an trú nơi tự tính bình đẳng, không còn bị vướng vào một kiến chấp nào. Bấy giờ tất cả mọi tranh chấp đều đã được ngưng lại, oán thù và tật đố không còn có mặt, vị ấy tuy đứng trên tuệ giác mà chẳng thấy mảy may tự hào.” (hết trích)

.

Riêng bài Kệ 20 vừa dẫn đã mang trọn đủ pháp hành Bát Chánh Đạo, với đầy đủ nghĩa của Tâm Kinh Bát Nhã. Tương đương là bài Kệ 954 trong Phẩm thứ tư trong Kinh Tập của Tạng Pali. Nơi đây sẽ ghi lại cách dịch sang tiếng Anh của nhiều bậc Thầy, và người viết tuần tự sẽ dịch nghĩa sang tiếng Việt. Lý do phải đối chiếu nhiều bản Anh dịch là để bảo đảm sẽ không sai chệch một nghĩa nào.
 

Bản dịch của Bhikkhu Sujato: “A sage doesn’t speak of themselves as being among superiors, inferiors, or equals. Peaceful, rid of stinginess, they neither take nor reject.” (Nghĩa: Một bậc trí tuệ không tự nói về họ như một hữu thể giữa những người cao quý hơn, những người thấp kém hơn, hay những người đồng đẳng. Lòng bình an, xa lìa tâm hà tiện bủn xỉn, họ không nắm giữ mà cũng không đẩy ra.)
 

Bản dịch của Laurence Khantipalo Mills: “A sage speaks not as though / ’Mong equal, low or high, / Serene, devoid of avarice, / Does not accept or reject.” (Nghĩa: Một bậc trí tuệ không tự nói về mình như là giữa những người đồng đẳng, những người thấp kém hơn, hay những người cao quý hơn. Tịch lặng, không còn hà tiện tham lam, [họ] không nhận lấy gì, cũng không xua đẩy ra.)
 

Bản dịch của của John D. Ireland: “A sage does not speak in terms of being equal, lower or higher. Calmed and without selfishness he neither grasps nor rejects." (Nghĩa: Một bậc trí tuệ không hề nói trong cái nhìn [thấy mình] đồng đẳng, thấp kém hơn hay cao quý hơn. Bình lặng, không còn ích kỷ nữa, người này không nắm giữ gì mà cũng không xua đẩy ra.)
 

Bản dịch của Thanissaro Bhikkhu: “The sage doesn't speak of himself as among those who are higher, equal, or lower. At peace, free of selfishness, he doesn't embrace, doesn't reject," the Blessed One said.” (Nghĩa: Lời Đức Phật dạy: Bậc trí tuệ không tự nói về họ như nằm trong những người cao quý hơn, hay đồng đẳng, hay thấp kém hơn. Tâm bình an, xa lìa ích kỷ, vị này không ôm lấy cũng không xua đẩy đi.”
 

Bản dịch của Bhante Varado: “The sage does not speak of himself as someone equal, inferior or superior. At peace, unselfish, He neither clings nor relinquishes.” (Nghĩa: Bậc trí tuệ không tự nói về mình như là đồng đẳng, thấp kém hơn hay cao quý hơn. Tâm bình an, không ích kỷ, vị này không không dính vào [pháp nào] mà cũng không xua đẩy [pháp nào].”

  

Người không tự nói về mình như là đồng đẳng, cao quý hay thấp kém với bất kỳ ai, với bất kỳ giới nào. Bản chữ Hán viết: “Thượng bất kiêu, hạ bất cụ / Trụ tại bình, vô sở kiến.” Nghĩa là, không thấy có gì là tôi, không thấy có gì là người, không chỗ để thấy, để trụ vào (vô sở kiến). Đó là lời Đức Phật nói tóm tắt.
 

Trong Bát Nhã Tâm Kinh giải thích:  thấy 5 uẩn là không là giải thoát. Nói thấy sắc là không, tức là cái được thấy là không, cái được nghe là không, cái được ngửi là không, cái được nếm là không, cái được cảm thọ là không, cái được tư lường là không. Đức Phật dạy trong Kinh SA 265 (Hán Tạng) và Kinh SN 22.95 (Tạng Pali) rằng những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại đều là không, y hệt bong bóng nước theo mưa mà sinh ra; tương tự, tưởng y hệt như quáng nắng sinh khởi khi trời nắng gắt… Toàn thân mình cả 5 uẩn đều thấy là không, và nhìn người khác cũng thế, do vậy không có cái gì là “tôi” hay “người” và do vậy, trong thực tướng, không có cái gì để gọi được là cái gì, để gọi là đồng đẳng, hay cao quý hơn, hay thấp kém hơn. Do vậy, Bát Nhã Tâm Kinh nói rằng khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn. Thấy 5 uẩn là không tức là giải thoát. Cũng là thấy Đạo Đế, vì khổ không còn chỗ nào trong 5 uẩn để bám vào.
 

Như thế, ngay khi thấy 5 uẩn là không tức là cũng hoàn thành Bát Chánh Đạo, vì đã thành tựu Chánh kiến (thấy Vô thường, Vô ngã), Chánh tư duy (tâm xả ly, không vướng vào ba cõi Dục, Sắc hay Vô Sắc), Chánh ngữ (không thấy gì để nói về tôi hay người, tức lời nói lìa ba cõi), Chánh nghiệp (thấy 5 uẩn là không là được tự tánh giới, tâm không thấy có ta hay người, tức là xa lìa sát sanh, trộm cắp…), Chánh mệnh (thấy các pháp bình đẳng, do vậy không thể làm các nghề hại người hay hại mình), Chánh tinh tấn (thấy thường trực 5 uẩn là không tức là chánh tinh tấn), Chánh niệm (tình thức thấy “trụ tại bình vô sở kiến”, cũng là hoàn tất tứ niệm xứ, nghĩa là tỉnh thức với tâm vô niệm mới là Chánh niệm -- Kinh SN 22.63: by not clinging one is freed from the Evil One / Niệm vô trụ là giải thoát.), Chánh định (Khi thấy thường trực là không, tức thời thấy thực tướng là không, thấy thức không chỗ nương bám. Và đó là Chánh định. Kinh SN 12.59: When consciousness ceases, name and form cease.… That is how this entire mass of suffering ceases./ Do thức diệt nên danh sắc diệt… Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.).


 

Phần sau bài Kệ là: Tịch lặng, không còn hà tiện tham lam, [họ] không nhận lấy gì, cũng không xua đẩy ra. Đã thấy là vô sở kiến, tức là thấy thức không chỗ nương bám, thấy các pháp là không, thì tâm tham tự động lìa. Cũng không thấy có gì để nắm giữ hay đẩy ra, không thủ và không xả, vì không có người thủ và không có người xả. Kinh AN 9.3: Này Meghiya, với Tỷ-kheo có tưởng vô thưởng, tưởng vô ngã được tồn tại. Có tưởng vô ngã, thời ngã mạn bị phá hoại, ngay trong hiện tại đạt được Niết-bàn.
 

Giải thích theo Thiền Trúc Lâm sẽ là: Thủ và xả còn có nghĩa là khi tương tác với nội xứ và ngoại xứ (tức là, tương tác với thân thọ tâm pháp) chúng ta lại thủ và xả tức là tự thấy mình có tự ngã để muốn thế này, để muốn thế kia, muốn tâm mình phải tăng thịnh hay nắm giữ pháp này hay pháp kia, muốn tâm mình phải xua đẩy thế kia. Thủ và xả là do tâm phân biệt, không thấy tự tánh các pháp là vô ngã, là không, là rỗng rang. Muốn thủ hay xả là chưa thấy bình đẳng trong thực tướng vô ngã, vô thường, tức nơi tự tánh không. Tất cả như thế đều sai. Thấy được thực tướng là không rồi, thì chỉ cần giữ tâm tịch lặng, vô sở kiến, không thủ, không xả, không nắm giữ, không xua đẩy. 
 

Kinh SN 1.1, bản dịch Thầy Thích Minh Châu trích: “Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời Ta chìm xuống. Này Hiền giả, khi Ta bước tới, thời Ta trôi giạt; do vậy, này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu.”
 

Bước tới, bước lui là còn thấy có cái ta để muốn tăng thịnh, muốn xua đẩy. Đứng lại là còn thấy có danh sắc để đứng lại. Không đứng lại, không bước tới, không bước lui, là không thấy có cái 5 uẩn nào của ta đang dấy động.
 

Một nghĩa khác: bước tới là mơ mộng về tương lai, bước lui là nuối tiếc quá khứ, đứng lại là chấp vào vị ngọc của cái hiện tiền. Khi thấy các pháp là không, thấy 5 uẩn là không, thì sẽ tự động lìa cả 3 thời (quá-hiện-vị lai), tức là giải thoát.
 

Nhìn chung, Kinh Nghĩa Túc bài kệ nào cũng là giải thoát. Và đó là tận cội nguồn của Phật Giáo Sơ Thời, với lời dạy của Thế Tôn trong thời kỳ chỉ dạy nhìn vào thực tướng vô ngã của các pháp để giải thoát, mà không cần mài giũa gì.
 

Kinh Kim Cang và Kinh Pháp Bảo Đàn viết rằng giữ tâm vô sở trụ là giải thoát. Kinh SA 926 (A Hàm) và Kinh AN 11.9 (Tăng Chi Bộ) cũng viết như thế.

Đức Phật gọi vô sở trụ là Thiền pháp của tuấn mã. Kinh AN 11.9, bản dịch của Thầy Minh Châu viết, trích: "...này Sandha, con người hiền thiện, thuần thục, khi đi đến khu rừng, khi đi đến gốc cây, khi đi đến ngôi nhà trống, trú với tâm không bị dục tham ám ảnh, không bị dục tham chinh phục, như thật quán tri sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên. Vị ấy an trú với tâm không bị sân ám ảnh… Vị ấy an trú với tâm không bị si ám ảnh… Vị ấy an trú với tâm không bị hôn trầm thụy miên ám ảnh… Vị ấy an trú với tâm không bị trạo hối ám ảnh… Vị ấy an trú với tâm không bị nghi hoặc ám ảnh, không bị nghi hoặc chinh phục, như thật rõ biết sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc đã khởi lên. Vị ấy Thiền tư không y chỉ vào đất, Thiền tư không y chỉ vào nước, Thiền tư không y chỉ vào lửa, Thiền tư không y chỉ vào gió, Thiền tư không y chỉ vào Không vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Thức vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Vô sở hữu xứ, Thiền tư không y chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thiền tư không y chỉ vào thế giới này, Thiền tư không y chỉ vào thế giới sau, phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy tư, Thiền tư không y chỉ vào cái ấy. Tuy vậy, vị ấy vẫn có Thiền tư. Lại nữa, này Sandha, với vị ấy Thiền tư như vậy, chư Thiên với Thiên chủ, các Phạm thiên với chúng Phạm thiên, dầu từ xa, đảnh lễ con người hiền thiện thuần thục."
 

Toàn bộ các lời dạy trong kinh trên được Thầy Nhất Hạnh dịch trong Đạo Bụt Nguyên Chất là: Trụ tại bình vô sở kiến.

Và Thầy Nhất Hạnh ghi rõ nghĩa: “…vị mâu ni an trú nơi tự tính bình đẳng, không còn bị vướng vào một kiến chấp nào.”
 

Nơi đây, người viết xin ghi lời thành kính cảm ơn Thầy Nhất Hạnh đã dịch một bản Kinh rất mực quý giá, ghi lại được văn phong của Thế Tôn: Trực chỉ nhân tâm, kiến Tánh thành Phật.
 

Nơi đây, người viết cũng xin ghi lại một bài thơ làm năm 2015 để cúng dường Thầy Nhất Hạnh, lúc đó khi biết Thầy lâm bệnh nặng. Bài thơ song ngữ như sau.

.

Đôi Dòng
Viết đôi dòng thư pháp
ca ngợi Đức Thế Tôn
mực loang như nước mắt
ngấm ơn sâu vào hồn.
 

Viết đôi dòng thư pháp
cúng dường Thầy Làng Mai
ngẩng đầu nghe tiếng hạc
lưng trời gọi tên ai.
 

Từ đôi dòng thư pháp
nét mực hóa rừng hoa
ướp lời thơ thơm ngát
khắp trời hát đạo ca.

---- Thơ Nguyên Giác, 2015.

  

The Two Lines
Praising the Buddha
with two calligraphic lines
I saw the ink flow like
thankful tears warming my heart
 

Making offerings to Thay Lang Mai
with two calligraphic lines
I raised my head, hearing on high
a crane creak a mystic name.
 

Flowing from the two calligraphic lines
the ink became a floral sea
added fragrance on words of poetry
and echoed far on high a dharma melody.

---- By Nguyen Giac, 2015
 

Hậu học cẩn bút, thành kính tưởng niệm.
 

GHI CHÚ:

- Bản dịch Thầy Nhất Hạnh: https://thuvienhoasen.org/p16a9949/giang-kinh-chuyen-hoa-bao-dong-va-so-hai

- Bản dịch Sujato: https://suttacentral.net/snp4.15/en/sujato

- Bản dịch Mills: https://suttacentral.net/snp4.15/en/mills

- Bản dịch Ireland: https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.4.15.irel.html

- Bản dịch Thanissaro: https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.4.15.than.html

- Bản dịch Varado: http://suttas.net/english/suttas/khuddaka-nikaya/sutta-nipata/atthakavagga%20-%20php%20version%201.4/15-violence.php

- Kinh SN 1.1: https://suttacentral.net/sn1.1/vi/minh_chau

- Kinh AN 11.9: https://suttacentral.net/an11.9/vi/minh_chau

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nói rõ, tôi không phải là một nhà văn hay một nhà báo gì cả. Tôi chỉ là một “nhà gõ”. Tôi chỉ gõ laptop mà thôi. Tôi gõ chùa, không vì tiền (gõ chùa) nhưng gõ cho vui, để tự mình trau dồi thêm kiến thức, để tự học hỏi, để tự mình giải khuây, để khỏi nghĩ quẩn, để khỏi bị bệnh Alzeihmer, để thoát ly và cũng để giảm bớt stress trong cuộc sống, v.v...
Trong không khí gây gây lạnh của ngày cuối năm, người Việt tha hương ở Nam Cali vẫn có những ngày nắng ấm hanh vàng làm tươi hồng đôi má các cô thiếu nữ đương xuân. Đèn hoa lễ hội được trang hoàng khắp nơi chào đón ngày Chúa chào đời.
Tôi gọi cha tôi là cha. Không là bố, là ba, là tía, là thầy, hay là cậu. Tôi gọi mẹ tôi là mẹ, không là má, là mạ, là măng, hay là u. Tôi “quê một cục” vì tôi sinh ra và lớn lên ở một miền quê khô cằn. Sau này tôi thấy từ “cha” sao thân thương quá, vừa nhẹ nhàng vừa âu yếm, vừa thật thà lại vừa thiết tha.
-Bữa qua có chuyện ngộ lắm. Cái bàn cầu nhà tui cứ xục xịch hoài. Cái này có từ hồi mua nhà 10 năm trước, chứng tỏ hai con ốc nó cũ tới mức nào mới lỏng le vậy.
Nghe người ta nói: Người đẹp không cần son phấn, có đúng không chị?. Em thì lúc nào cũng cần son phấn, có ngược đời không chị nhỉ?
Màu tóc tự nhiên của người Á Đông là màu đen. Màu tóc đen mướt, mịn màng rất đẹp. Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng nên làm cho màu tóc đen thêm phần tươi sáng nhờ vài nhiên liệu thường có sẵn trong nhà bếp, hoặc mua với giá khá rẻ ở chợ thực phẩm.
Nếu một người chủ thuê nhân viên có sự đối xử phân biệt, hoặc trả thù (ví dụ: người chủ sa thải một nhân viên bởi vì nhân viên đó đã hỏi anh ta tại sao họ không được trả tiền lương tối thiểu, hoặc bởi vì nhân viên đó nộp đơn, hoặc đe dọa nộp đơn yêu cầu tới bộ lao động), nhân viên đó có thể khiếu nại sự đối xử/ phân biệt/ trả thù tới văn phòng bộ lao động.
Chút ngỗ ngáo tom-boy. Màu sắc mùa thu hài hòa với tông nâu vàng đen, áo choàng dài, giày thể thao, đế thấp và bằng, thích hợp với những người có vóc dáng cao thon.
Bộ Nội An và Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ vừa loan báo những kế họach nhằm đưa ra khá nhiều điều lệ mới về di trú trong vài tháng sắp tới. Những quy luật này sẽ áp dụng cho những du khách xin chiếu khán công việc B-1, sinh viên du học với chiếu khán F1, những người chuyên nghiệp xin chiếu khán làm việc H1B và chiếu H4 dành cho người phối ngẫu của họ, và chiếu khán L-1.
Tin tức về việc Hạ Viện với đại đa số dân biểu Dân Chủ đã chính thức bỏ phiếu thông qua 2 điều khoản luận tội Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump hôm 18 tháng 12 đã gây sự chú ý đặc biệt trên khắp thế giới.
Đại Sứ Trung Quốc tại Thụy Điển là ông Quế Tòng Hữu đã bị các Nghị Sĩ Thụy Điển đòi trục xuất vì ông này đã nhiều lần phát ngôn uy hiếm Thụy Điển vì Hội Nhà Văn Thụy Điển đã trao giải thưởng Tucholsky cho một nhà văn và nhà xuất bản người Thụy Điển gốc Hồng Kông
Tô Kiều Ngân tên thật Lê Mộng Ngân, ông sinh năm 1926 tại Huế. Từ nhỏ ông đã sớm tỏ ra có chất nghệ sĩ, thường trốn học, đi chơi đó đây với cây sáo trúc không mấy khi rời tay.
Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tọa lạc tại 1538 N. Century Blvd, Santa Ana, CA 92703, được hình thành vào năm 1975, với một số người Công Giáo tỵ nạn tại Orange County, với lúc đầu chỉ chừng 3,000, nhưng tới năm 1982 con số nầy đã tăng lên tới 7,000. Tuy đã có Thánh Lễ bằng tiếng Việt tại 9 nhà thờ của giáo xứ, nhưng họ vẫn thấy cần một nơi để sinh hoạt theo phong tục của người Việt.
Bị nước Tàu đô hộ ngàn năm, Việt Nam không bị đồng hóa mà vẫn giữ được truyền thống dân tộc. Tiếng nói, chữ viết, cách ăn mặc, tập tục, phong thái...và nói chung, mọi thứ đều là Việt Nam. Chuyện đó ai cũng biết.
Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn quê gốc làng Thanh Lương, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ngày 18 tháng 11 năm 1937 tại làng Dư Khánh, tỉnh Ninh Thuận.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.