Hôm nay,  

Nhân sinh nhật 100 tuổi của National Park Service Thăm Công viên Quốc gia Mesa Verde: Nơi tập trung nhiều nhất di tích kiến trúc của tổ tiên người Da Đỏ - Anasazi

10/03/201700:05:00(Xem: 5361)

National Park 8
Năm 2016 là năm đầy 100 tuổi của cơ quan National Park Service (NPS), được Quốc Hội Mỹ lập ra để điều hành hệ thống công viên nay gồm 413 đơn vị, trong đó 59 đơn vị là công viên quốc gia. 

Các vị tổng thống kế cũng đã nhân danh Luật Bảo Tồn Cổ Vật này để chỉ định nhiều vùng thành kỳ đài quốc gia, trong số đó một số sau được nâng lên hàng công viên quốc gia. Do đấy là nhu cầu cần có một cơ quan trung ương như NPS để việc bảo tồn di sản thiên nhiên của quốc gia được thống nhất, hữu hiệu và liên tục.

Tiểu bang có nhiều công viên quốc gia nhất: dẫn đầu với chín công viên là California, kế đó là Alaska với 8 công viên, Utah với năm, và Colorado với bốn.(1)

Tính đến năm 2012, có tới 413 khu vực chiếm một diện tích là 84 triệu acres trên mọi tiểu bang và các vùng tự trị thuộc trách nhiệm bảo tồn của NPS. Hàng triệu du khách đã tới viếng các công viên, đài kỷ niệm quốc gia này. Riêng năm 2015, tổng số du khách là trên 307 triệu. Dẫn đầu là Công viên Great Smoky Mountains, với trên 9.6 triệu; kế là Grand Canyon, trên 4.4 triệu; Yosemite, trên 3.8 triệu; rồi mới tới Yellowstone, gần 3.5 triệu. Nhiều người từ khắp nơi trên thế giới, nhất là từ Âu châu, đã đến để chiêm ngưỡng các công trình thiên nhiên được bảo tồn trong hệ thống công viên quốc gia được mệnh danh là “America's Best Idea - Tuyệt Ý của Nước Mỹ.” Tuy vậy, các nhân viên NPS vẫn lo ngại là trong số du khách tới thăm các công viên quốc gia, có tới 75% là gốc da trắng. Nhân kỷ niệm NPS 100 tuổi, cơ quan này đang có những nỗ lực để thu hút thêm du khách thuộc các sắc dân thiểu số.(2)

Số công viên quốc gia tôi đã có dịp đặt chân tới có lẽ chỉ đếm được trên dưới 10 đầu ngón tay, là không nhiều. Nhưng chuyến đi nào cũng để lại trong tôi một niềm hãnh diện, đó là cảm giác mình cũng là một trong những sở hữu chủ của cái kỳ quan thiên nhiên này. Với tôi, cao điểm của nền dân chủ Mỹ phản ảnh qua hệ thống công viên quốc gia: Mọi người đều là chủ và có bổn phận bảo tồn chúng. Đấy cũng là một trong những nơi đã khiến tôi cảm thấy tiền đóng thuế của mình được sử dụng hữu ích hơn cả.

Tất nhiên trong một bài báo không thể kể hết về các công viên tôi đã có dịp thăm. Nhưng tôi có thể chia sẻ với độc giả một trong những công viên quốc gia tôi thích nhất, đã nghiên cứu về nó nhiều hơn cả, đã viếng hai lần, và vẫn mong có dịp trở lại: Đó là Mesa Verde National Park, nằm ở góc tây nam của Tiểu bang Colorado. Đây cũng là công viên quốc gia văn hoá duy nhất tập trung nhiều di sản kiến trúc của sắc dân Da Đỏ cổ sơ, gọi là Anasazi, nghĩa là The Old Ones.

National Park 3Băng hình trên cùng, bên phải là lối vào Công viên Mesa Verde; và bên trái là toàn vùng Mesa Verde với những chóp núi bằng phẳng như mặt bàn một thời xanh tươi thuận tiện cho việc canh tác, do đấy gọi là Mesa Verde (cái bàn xanh tươi). Bằng hình giữa và dưới cùng là Cliff Palace, gồm 150 phòng, là di tích lớn nhất trong số khoảng chục di tích được trùng tu cho du khách vào xem. Du khách cần mua vé vào cửa tại Visitor's Center, và phải chờ được hướng dẫn xuống xem. Đường đi hơi khó vì khúc khuỷu, gập ghềnh, phải lên xuống nhiều bậc thang, và ở lối ra có chỗ rất hẹp, phải đi nghiêng người mới lọt, và leo khoảng trên chục nấc thang để lên mặt mesa. (Ảnh TD, 5/2008)

Nào, mời bạn bước vào lịch sử.

Mesa Verde National Park:

Nơi tập trung nhiều di tích kiến trúc của tổ tiên người Da Đỏ. Vào một ngày mùa đông tuyết rơi năm 1888, hai anh em cao bồi nhà Wetherill đi kiếm mấy con bò đi lạc trong vùng đồi núi thuộc tây nam Tiểu bang Colorado. Tình cờ họ bắt gặp trong hốc núi bên kia thung lũng qua màn tuyết rơi di tích kiến trúc đồ sộ của một làng thuộc bộ lạc Da Đỏ, đẹp và huyền bí như trong một giấc mơ. Hai anh em rủ nhau lần qua đó.

Cliff Palace: Tòa lâu đài trong hốc núi

Việc khám phá ra ngôi làng hoang phế đã nhiều thế kỷ chưa một ai bén mảng tới, hầu như còn nguyên vẹn nhờ nép trong hốc núi, được anh em nhà Wetherill đặt tên là Cliff Palace (Lâu đài trong hốc núi). Rồi nhiều di tích kiến trúc cổ tương tự song nhỏ hơn trong vùng nay là Mesa Verde National Park đã mở đầu cho một thời kỳ thi đua sưu đào cổ vật, kể cả những di cốt của người Da Đỏ được chôn cất từ nhiều thế kỷ. Anh em nhà Wetherill cũng xoay ra nghề đào cổ vật, và trang trại của gia đình trở thành nơi du khách được hướng dẫn đi xem các di tích cổ trong Mesa Verde. Người ta đào cổ vật đem bán cho các viện bảo tàng hoặc giữ làm sưu tập riêng, một việc làm hoàn toàn hợp pháp hồi ấy.

Nhà thám hiểm Nordenskiold và Mesa Verde

Cho đến năm 1891 khi một thanh niên Thụy Điển, con một Nam tước, tên là Gustaf Nordenskiold, có kiến thức về khoa khảo cổ và đã từng tham gia những cuộc thám hiểm ở Bắc Âu, nghe về Cliff Palace và những kiến trúc gọi là cliff dwellings này trong Mesa Verde. Nodenskiolf tìm tới gia đình Wetherill để nhờ hướng dẫn đi xem. Thoạt đầu ông chỉ dự tính ở lại Mesa Verde một hai tuần rồi đi thăm thú các nơi khác ở phía tây nam, trong đó có Grand Canyon.

Hai tuần dự tính ấy trở thành bốn tháng miệt mài giữa những di tích của tổ tiên người Da Đỏ. Chính Nordenskiold dạy cho anh em Wetherill cách khai quật và ghi chú từng di tích và cổ vật. Và quan trọng hơn cả, ông chụp hình một số di tích này trước mỗi khi bắt đầu khai quật, mà sau này khi về lại Thụy Điển mới ghi chú lại và in thành cuốn “Cliff Dwelling of the Mesa Verde” cùng hơn 110 tấm hình trắng đen. Cuốn sách trở thành một cẩm nang của những người nghiên cứu và trùng tu Mesa Verde sau này.

Khi Nordenskiold góp những cổ vật của Mesa Verde và đóng thùng để chuyển về nước, dân địa phương biết được đã phản đối. Chính quyền Liên bang tại địa phương bắt giữ ông và đưa ra tòa xử, nhưng không có luật để buộc tội ông, nên đành để ông ta tự do chở những thùng cổ vật về Thụy Điển.

National Park 6Đường lên Balcony House trắc trở hơn so với Cliff House vì muốn đến đó phải leo lên một cái thang cao 34 feet kê chênh vênh bên miệng một cái vực, như trong băng hình ở hàng trên: Trái, một nhóm khách đang leo lên; giữa, từ trên chụp xuống du khách đang leo và một nhóm khác đang đứng chờ tới phiên mình; phải, vài người vừa leo lên tới nơi. Băng hình dưới, bên trái, các bạn của tôi sau khi lên tới Balcony House; giữa, phía sau chỗ tôi đứng là di tích của một cái kiva, nguyên thủy có mái che, bên trong có lò sưởi, là nơi tụ tập của cư dân, đặc biệt vào mùa đông. (Ảnh TD, 5/2008)

Luật Bảo Vệ Cổ Vật ra đời; Mesa Verde trở thành công viên quốc gia


Cũng từ đấy có cuộc vận động của các tổ chức tại địa phương phối hợp với một số nhân vật quan tâm tại Washington, D.C., với Quốc Hội Liên Bang, kéo dài tới 15 năm. Kết quả là Luật Bảo Vệ Cổ Vật (Antiquities Act of 1906) ra đời vào ngày 8 tháng 6 năm 1906. Ba tuần sau đó, Tổng thống Theodore Roosevelt ký sắc luật và Quốc Hội Liên Bang chấp thuận việc thiết lập Mesa Verde National Park, công viên đầu tiên được thành lập để bảo tồn các di tích khảo cổ, ước tính vào khoảng 4,000 đơn vị, trong đó có khoảng 600 kiến trúc lớn nhỏ.

Mesa Verde, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “cái bàn xanh lá cây”, trên đó tổ tiên người Da Đỏ trồng trọt mưu sinh cho tới thế kỷ 13, thực ra không là địa danh duy nhất trong vùng đã được bảo vệ, mà còn nhiều di tích cổ khác nữa. Nhưng Mesa Verde nổi tiếng nhất vì là địa điểm tập trung nhiều nhất các di tích kiến trúc đặc thù (pueblo architecture) của tổ tiên người Da Đỏ (cũng còn gọi là Ancient Pueblo Peoples), mà lớn nhất là Cliff Palace, với 150 phòng và 23 kivas (phòng hình tròn xây thụt xuống lòng đá dùng làm nơi tụ họp, cúng tế).

Theo các nhà khảo cổ thì sau khi sinh sống trên các mặt bằng trong các ngôi nhà xây thụt trong đất, gọi là “pit house,” của các mesa khoảng 600 năm, tổ tiên của người Da Đỏ, không rõ vì lý do gì, có giả thuyết cho là vì nhu cầu an ninh, bắt đầu xây nhà cửa và sống thành cộng đồng làng mạc trong hốc núi vào khoảng cuối thập niên 1190, lên xuống bằng những bậc khoét vào thành núi bằng đá cát (sandstone) chỉ vừa đặt bàn chân. Khoảng cuối thập niên 1270, họ bắt đầu di cư xuống phía nam nay là New Mexico và Arizona. Đến năm 1300 thì mọi sinh hoạt tại Mesa Verde chấm dứt, căn cứ vào phương pháp đo vòng thân cây (tree-ring dating).

Nhiều nhà khảo cổ suy đoán là có lẽ các trận hạn hán liên tiếp đã ảnh hưởng tới việc trồng trọt trên mesa nên dân làng phải bỏ đi tìm đất sống ở phía nam, nơi người ta tìm được những cổ vật mang đặc tính tương tự với cổ vật tìm thấy ở Mesa Verde.

Tuy nhiên, việc tại sao bỗng dưng người Anasazi biến khỏi Mesa Verde vẫn còn là một đề tài còn được tranh biện, và đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn, trong đó có nữ văn sĩ nổi tiếng của Mỹ là Willa Cather (1873-1947). Một trong những truyện bà viết có liên quan trực tiếp tới Mesa Verde là “Blue Mesa”. Ngoài ra, tôi cũng đã có dịp đọc cuốn tiểu thuyết “Mesa Verde” của Gary McCarthy dựng lại cả một nền văn minh của Anasazi trên Mesa Verde, trước khi có dịp thăm viếng nơi này lần đầu vào năm 2008.

Khi nhân viên liên bang (hồi ấy thuộc Department of Interior, Bộ Tài Nguyên Quốc Gia, không phải Bộ Nội Vụ như ta thường hiểu, vì National Park Service mãi tới năm 1916 mới được thành lập) tiếp thu Mesa Verde vào năm 1906, phần lớn cổ vật đã bị đào sới và tẩu tán rồi, chỉ còn lại những di tích kiến trúc đổ nát.

Tiến sĩ Jesse W. Fewkes và giám đốc công viên đầu tiên do liên bang chỉ định là Jesse L. Nusbaum quyết định trùng tu các di tích kiến trúc và dùng chúng để kể lại lịch sử của Mesa Verde.

National Park 9.png.jpgDu khách có thể tự mình đi xem di tích Step House mà không cần phải mua vé. Trái, đường xuống Step House, vừa lên vừa xuống khoảng 1 dặm, tất nhiên là dốc, với một số vài chục bậc thang. Di tích này độc đáo ở chỗ trong cùng môt hốc đá có tới hai thời đại kiến trúc, một là loại nhà adobe bằng đất xây thụt xuống lòng đất, gọi là pit house, với mái bằng cây thô sơ rồi đắp đất bên trên, đánh dấu thời kỳ người Anasazi còn xây nhà trên mặt bàn núi vào khoảng năm 750. Loại thứ hai là loại kiến trúc bằng đá cát trong hốc núi, tức cliff dwelling, thiết kế tinh vi, rộng rãi và cầu kỳ hơn, từ cuối thế kỷ thứ 12. Khi trùng tu lại di tích kiến trúc của thời kỳ sau, các nhà khảo cổ khám phá ra ngay gần đó, ở dưới thấp và trong cùng một hốc đá, di tích của loại nhà adobe của mấy thế kỷ trước, và họ đã trùng tu cả hai thời đại kiến trúc. Trong hình giữa, nhân viên của công viên đang giải thích cho du khách về kiến trúc cliff dwelling với phòng kiva và nhiều phòng. Ở hậu cảnh sát tường là ba nền nhà tròn của loại kiến trúc adobe. Phải, một góc của ngôi nhà trong hốc đá. (Ảnh TD, 8/2014)

Mesa Verde National Park và New Deal

Việc trùng tu và bảo trì tiến hành rất chậm, phần lớn vì thiếu ngân quỹ. Cho tới thời New Deal do Tổng thống Franklin Delano Roosevelt phát động vào năm 1933 để cứu vãn nền kinh tế đang bị khủng hoảng, Mesa Verde mới có ngân sách và nhân lực để trùng tu lại các di tích kiến trúc cổ và xây dựng hạ tầng cơ sở như đường xá và những kiến trúc hỗ trợ khác trong công viên.

Trong số khoảng 600 di tích tìm thấy, 90 phần trăm có 10 phòng hay ít hơn. Một phần ba chỉ có một hay hai phòng.

Những di tích nổi tiếng nhất gồm Cliff Palace (150 phòng), Long House (150 phòng), Spruce Tree House (130 phòng), và Balcony House (40 phòng).
Mesa Verde National Park, nằm ở cao độ trên 7000 feet, chính thức mở cửa cho du khách vào xem vào năm 1972.

Hàng năm có khoảng nửa triệu khách viếng nơi này. Du khách có thể thăm viếng khoảng gần chục di tích đã được trùng tu, như Cliff Palace, Balcony House, Spruce Tree House và Square Tower House trên Chapin Mesa; và Long House và Step House trên Wetherill Mesa nằm ở góc tây nam công viên chỉ mở từ Memorial Day cho đến ngày Labor Day.

Có vài di tích cần mua vé và có nhân viên của công viên hướng dẫn, và đòi hỏi người viếng phải có thể đi bộ và trèo cao được.

Những chuyến viếng thăm Công viên Mesa Verde

Vào đầu tháng 5, 2008, vài người bạn và tôi rủ nhau đi thăm vùng Four Corners, nơi duy nhất trên đất Mỹ có bốn tiểu bang Arizona, Utah, Colorado và New Mexico gặp nhau, và là nơi tập trung nhiều công viên quốc gia tương đối gần nhau, dễ dàng cho việc đi lại, trong đó có Mesa Verde National Park nằm ở tây nam của tiểu bang Colorado. Chúng tôi trải qua ba ngày trong Mesa Verde, trước khi đi thăm các công viên khác trong vùng.

Tháng 8 năm 2014, tôi lại có dịp trở lại Mesa Verde một lần nữa với vài chị bạn. Ngoài việc thăm lại những di tích kiến trúc cổ trên, tôi cũng đã viếng hai di tích bên Wetherill Mesa chỉ mở cửa vào mùa hè, là Long House và Step House, mà lần đi trước bị hụt vì đi vào đầu tháng 5 nên chưa mở cửa. (3) Sau đây là một số hình ảnh chọn lọc về Công viên Mesa Verde.

(TD, 10/2016)

Chú thích:

1. “The National Parks: America's Best Idea,” phim tài liệu gồm sáu kỳ do nhà làm phim tài liệu danh tiếng Ken Burns thực hiện, có thể xem tại http://www.pbs.org/nationalparks/  hoặc mua nguyên bộ trên Amazon.

2. “Park Service seeks minorities' support as it marks 100 years,” http://bigstory.ap.org/article/cc467570aab04caebc70d9909152dae7/park-service-seeks-minorities-support-it-marks-100-years

3. Muốn tìm hiểu thêm về Công viên Mesa Verde, xin viếng http://www.nps.gov/meve/index.htm của National Park Service, và http://whc.unesco.org/en/list/27  của UNESCO World Heritag 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cho tới Tết Nguyên Đán năm ĐINH DẬU này, đã qua hơn hai mươi mùa xuân, người viết vẫn chung thủy cùng bạn đọc, cùng Việt Báo để mỗi năm cống hiến một bài viết về Võ đạo, Võ học và Võ thuật.
Tết là pháo, là câu đối, là bánh chưng, dưa hành, nhưng còn một điều không thể thiếu trong mấy ngày Tết - là cờ bạc.
Lê Thương, một nhạc sĩ tài ba, một vị thầy giáo tài giỏi, đức độ, một người nặng lòng với nước non, một nghệ sĩ lãng mạn với tâm hồn bay bổng thanh cao.
Nhưng khi chuyển sang tiếng Việt, dường như bài thơ mất đi cái không khí lạ lẫm của sự so sánh và liên tưởng giữa họa sĩ và thi sĩ, giữa họa và thơ.
Buổi trưa này thuộc vào mùa gì nhỉ, anh lẩm nhẩm tính toán. Vâng đầu mùa xuân.
Cuối tháng tư 75, Cộng quân chiếm miền Nam, coi giáo sư biệt phái là thành phần khả nghi, có tội như các sĩ quan hiện dịch.
Khi có ý định phiêu lưu du lịch Cuba, một cảm giác hồi hộp lạ lùng dấy lên trong chúng tôi.
ngồi bó gối tự hỏi – Bao giờ? Bao giờ?
K bỏ ống nghe xuống, hình như cố nín thở. Không bận tâm quay lại phía tôi, cô nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ, búi tóc to sau gáy treo lửng lơ, cũng tựa như kiểu cô đang lơ lửng đâu đó.
Đã qua rồi, thuở thần tiên!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.