Hôm nay,  

Đọc “lớn Lên Với Đất Nước”

6/7/200600:00:00(View: 4906)

Không ai có thể lớn lên nếu người đó không biết ước mơ.

Tác giả Vy Thanh Lớn Lên Với Đất Nước. Vy Thanh có những ước mơ với đất nước.

Nhận được cuốn sách Vy Thanh gởi tặng, tôi lật nhanh nhiều trang sách, tìm xem Đất Nước trong Ước Mơ của Vy Thanh ra sao.

“Ngày đó trên đất nước tôi...

Giống như ở các quốc gia Đông Âu. Nhân dân đã mở hội ăn mừng một ngày lịch sử khi người nước ngoài đem mô hình xã hội chủ nghĩa áp đặt lên đất nước họ hoàn toàn sụp đổ.

Một ngày giống như vậy được ghi trên lịch sử Việt Nam. Thảm họa giặc cờ đỏ chấm dứt. Các quốc gia lân bang mừng lây, không còn ám ảnh bị ý thức hệ đô hộ.

Một chính phủ được dân cả nước tôi bầu thành hình. Chính phủ không còn là công cụ của một  giai cấp chuyên chính. Ba thứ quyền trong nước làm việc độc lập nhằm một mục đích: dân sống ấm no, sinh hoạt sản xuất mua bán, truyền đạt thông tin, tự do tín ngưỡng được bảo vệ.

Vào những ngày đó. . .

Trên hai miền đất nước tiếng cười của thế hệ tương lai vang trong trường học. Những nét mặt héo mòn, những thân thể gầy guộc xanh xao chẳng thấy như khi xưa. Người dân nước tôi bấy giờ không ốm thấp như tôi hồi còn nhỏ.. . .

Ngày đó dân nước tôi đã lớn lên trong tự do, sống hạnh phúc. Nước tôi không còn chịu ảnh hưởng một ý thức hệ nào hay lệ thuộc vào những tay buôn toàn cầu.

Sau cơn hôn mê kéo dài hơn 30 năm, thành phố Sàigòn tỉnh dậy. Đất nước tôi chuyển mình, vươn lên từ đó. Sàigòn trở thành thủ đô của Việt Nam. Dân Việt tự hào với chủ quyền. Từ ‘độc lập’ bấy giờ mới thật.” (Xem trang 391-392).

Ước mơ của Vy Thanh đơn giản, hiền hòa, đầy tình thương như chính Vy Thanh, như chính những người dân miệt đồng bằng sông Cửu.

Nhưng sao cho tới bây giờ ước mơ đơn giản đó vẫn như còn xa vời quá. Từ một cậu bé 12 tuổi, Vy Thanh đến nay đã quá tuổi “cổ lai hi” mà đất nước vẫn èo uột. Trong đau xót này Vy Thanh viết Lớn Lên Với Đất Nước.

Tác phẩm gồm 10 Chương và phần Chú Thích, cả thảy 753 trang khổ lớn (23.0cm). Để có một cái nhìn chung, chúng ta thử lược phác tóm tắt.

Chương 1. Việt Minh và quân Nhật ở Cần Thơ trước năm 1945.

Chương 2. Việt Minh cướp chính quyền, sát hại Hòa Hảo. Tiêu thổ kháng chiến.

Chương 3. Người Pháp trở lại Cầnthơ. Việt Minh lùa dân tản cư. Tác giả về sống trong đồng ruộng. Tòa án Nhân dân. Cải cách Ruộng đất trong vùng Việt Minh kiểm soát thuộc Hậu giang.

Chương 4. Hồi cư. Việt Minh khủng bố dân cả ở ngoài thành và trong bưng.

Chương 5. Liên hệ giữa hai vùng. Việt Minh hoạt động nội thành, chuẩn bi tổng phản công. Tưởng niệm trò Trần văn Ơn. Trường Collège de Cần Thơ đóng cửa. Tác giả ra bưng theo Việt Minh.

Chương 6. Cuộc đời mới của tác giả đi học làm người giữa những dân quê chất phác và những cán bộ quỷ quyệt, hủ hóa.

Chương 7. Các sinh hoạt, công tác, học hỏi của tác giả trong vùng Việt Minh.

Chương 8. Tác giả tiếp tục công tác và nhận xét về tình đồng bào, lòng yêu nước của một số cán bộ, bộ đội.

Chương 9. Trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Tác giả thay đổi cái nhìn về kháng chiến. Công tác trí vận nội thành. Về Sàigòn đi học. Được học bổng đi Mỹ.

Chương 10. Về nước hoạt động giáo dục, đặc biệt tại Viện Đại học Cần Thơ. Gặp lại một vài đồng chí cũ. Vượt biên.

Câu chuyện 10 chương sách trên đã được giới hạn trong vùng hữu ngạn sông Hậu với những người dân quê chân thật, bền bỉ và can đảm. Những người dân này hòa hợp với Đất Nước như “những củ súng đâm rễ dưới bùn sinh ra bông tím nở đầy trên lung, như cây lúa chuyển đất mầu cho gié sinh ra nhiều hột vàng hực.” (Xem Lời Nói Đầu, trang xii).

Trong câu chuyện, gần như không có nhân danh hay địa danh lịch sử. Cũng không có những bài học lịch sử. Ở đây chỉ có những Bác Mười, anh Chín, thằng Nhẫn, anh Bân, anh Đức, chị Mười, chị Tươi, v.v. Họ sống với nhau, lo cho nhau thật tự nhiên và tình nghĩa. Ấy thế mà cả một giai đoạn lịch sử qua 3, 4 thế hệ, qua nhiều giai đoạn chính trị, từ Pháp thuộc, Nhật thuộc, chiến tranh thuộc địa Việt Pháp, chiến tranh ủy nhiệm và ý thức hệ đã được viết ra. Chúng ta đừng đòi hỏi tác giả khi viết về Đất Nước phải bao chùm cho đủ toàn cõi 3 miền từ Nam tới Bắc Việt Nam. Tác giả chỉ viết về một phần đất, một số người như là một thành phần của tất cả tập thể. Chỉ một vùng đất và nhóm dân miệt Hậu giang, nhưng tác giả đã nói hết câu chuyện của cả Đất Nước. . . Câu chuyện của “những củ súng, những cây lúa” đã và đang bị người ngoại lai, chủ thuyết xa lạ tới dày xéo không cho “đâm rễ nở hoa,” không cho “chuyển đất mầu cho gié sinh nhiều hột vàng hực.” Trong hoàn cảnh đó tác giả đã sống, trôi nổi cho đến khi hoàn toàn thất vọng.

Có thể chúng ta sẽ hỏi tại sao tác giả không nói đến Đất Nước trong khoảng thời gian từ 1958 tới 1964.

Câu chuyện được kể ra dưới dạng một tự truyện mà các chi tiết phải xuất phát từ những gì tai nghe mắt thấy. Những năm ấy tác giả không có mặt tại Việt Nam. Tự truyện lúc này gồm các sinh hoạt học hành của tác giả ở Hoa kỳ. Nhưng đây, ngay năm 1964 khi về nước, tác giả đã trở lại  miệt Hậu giang, sống với Cầnthơ, Rạchgiá,... Viện Đại học Cầnthơ, các nhân sĩ, các sinh viên trong tỉnh, Tết Mậu Thân 1968 tại Cần Thơ... Tác giả còn gặp lại một vài bạn cùng chí hướng cũ trong quê. Nhưng “củ súng, cây lúa đã bị bứng rễ” rồi! Trong số những tai họa của Đất Nước, theo tác giả, có lẽ đây là tai họa đáng buồn nhất. Những thất vọng chồng chất, những biến cố đột xuất dồn dập đã biến đổi người dân Hậu giang. Năm 1975 tác giả ở trong dòng người vượt biển, liều chết ra khơi tìm đất tạm dung và mơ một ngày mai tốt lành cho Đất Nước...

Tác giả Vy Thanh là một nhà giáo rất quan tâm về giáo dục cho giới trẻ. Ông ao ước được làm “cây lúa chuyển đất mầu cho gié sinh ra nhiều hột vàng hực.” Tuổi trẻ của ông đã biết đủ mùi bất hạnh. Ông muốn những “củ súng được đâm rễ dưới bùn sinh ra bông tím nở đầy trên lung.” Ông viết tự truyện không phải vì, như nhiều người viết tự truyện khác, muốn giải tỏa một căn bệnh tâm lý.

Vy Thanh chưa bao giờ làm lịch sử, ông chỉ lao đao trong lịch sử, và không có ẩn ức nào để giải tỏa hoặc có những sai lầm đã làm để cải chánh... Vy Thanh viết tự truyện chỉ để nhắc lại một giai đoạn lịch sử. Lịch sử có nhiều điều để nói với hiện tại, giúp cho hiện tại biết tìm cách tự sửa đổi sao cho tương lai tránh được những sai lầm cũ. Sau Đệ Nhất Thế Chiến người ta đã nhìn ra sự cần thiết phải tái lập một nên giáo dục sao cho cá nhân có khả năng chấm dứt chiến tranh và biết tổ chức một thế giới tốt hơn bằng sự hiểu biết lẫn nhau.(1) Một trong những điều hiếm hoi khiến ta phân biệt được người với cầm thú là con người biết rằng nó có một lịch sử. Con người bị thúc dục bởi bản năng phải thấu triệt lịch sử đó, lịch sử của giống loài, của gia đình và của xứ sở.(2) Vy Thanh viết tự truyện với nhiều nét của văn hóa, của phong tục hòa hợp với nhau. Trong suốt cuốn sách, gần như chỗ nào cũng thấy có những nếp sống đồng ruộng, những mối liên hệ gia đình làng xóm, những câu nói dân gian, những vui buồn, lo toan, những bữa ăn thanh đạm thân tình, những giấc ngũ. . . của những người dân miệt vườn Hậu giang. Chẳng cần phải là người miệt Hậu giang, đọc Vy Thanh tả cảnh hai chiếc xuồng cặp kè trên kinh Thác Lác, dưới ánh trăng, để hai bên trai gái trao đổi những câu “Hò. .ơ. ơ. ơ...“ dân dã nên thơ, ít ai mà không mềm lòng rung cảm.

Có phải Vy Thanh đang pha trộn Nhân Loại Lịch sử Học (Anthropologie historique) với Lịch sử Văn hóa (Histoire culturelle) và với Lịch sử của các Trình diễn (Histoire des Représentations) khi viết tự truyện"

Trong Lớn Lên Với Đất Nước tác giả nhận ra những sử tính trên các dấu vết và chứng tích (les traces et les indices) từ những người dân dả với cuộc sống hàng ngày của họ. Tác giả khám phá ra những tiết lộ đủ để dựng lại những mẫu người của một vùng, của một thời mà chính sử cũng ít nói tới. Tác giả đi vào những cảm tính, những xúc động (les sensibilités et les émotions) trong nếp sống hàng ngày để phối hợp những con người với văn hoá và với những biểu tượng trình diễn. Chính trên bản thân của tác giả trong tự truyện người ta cũng thấy lịch sử diễn biến qua một “khán giả mới” xuất hiện.

Từ một thiếu niên hăng hái nhập cuộc kháng chiến, tác giả biến thành khán giả và nhìn ra mình “đi kháng chiến giống như thấy người ta đi coi hát bóng thả giàn, mình cũng chạy theo, vô rạp.” (Xem trang 234). Khán giả còn “thấy thương dân quá. Họ chiến đấu với Pháp giành lại độc lập tự do đặng có cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc đâu chẳng thấy, chỉ thấy bất hạnh ngay từ tháng Tám năm nào.” (Xem trang 232). Có lúc khán giả còn nghe như có tiếng nói của người sống lẫn người chết thở dài: “Chúng nó toàn là tuị nói láo, lợi dụng lòng yêu nước của dân, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc.” (Xem trang 304). Thất vọng cứ thế chồng chất cho đến ngày toàn thể Miền Nam rơi vào tay Cộng sản!

Dù Vy Thanh nhìn và viết câu chuyện bằng phương pháp sử học nào, với tác phẩm Lớn Lên Với Đất Nước, ông đang kéo người đọc hiện tại tới với lịch sử miệt Hậu giang, “lịch sử của một thành phần nhưng đồng nhất với toàn thể Đất Nước” để thấu hiểu, để yêu mến nó và để cùng nhau đem Đất Nước trong Ước Mơ thành hiện thực.

Brossard, 25 tháng 4 năm 2006

Đ.B. Ai

NOTES:

(1) Xem Le Dictionnaire des Sciences Humaines, Éditions Sciences Humaines, 2004. Paris: Presse universitaire de France, “Éducation nouvelle,” trang 180.

(2) Xem trả lời của Giáo su Alain Corbin đăng trong Sciences Humaines, no 93, avril 1999.

Alain Corbin là Professeur tại Sorbonne (Paris) và tại Institut Universitaire de France.

(LTS: Tác giả Vy Thanh đã mở một trang web riêng -- kính mời độc giả, thân hữu vào để mua sách Lớn Lên Với Đất Nước của Vy Thanh: http://vythanh.blogspot.com)

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.