Hôm nay,  

ĐS Martin nói gì (20/4) khiến TT Thiệu từ chức (21/4) và rời Sài Gòn (25/4/1975)?

02/04/202310:24:00(Xem: 2945)
Tìm hiểu lịch sử

daovan

 

Gần  50 năm trước báo chí Sài gòn nêu ra nhiều thắc mắc không biết Đại Sứ Martin nói gì (20.4.1975) mà một ngày sau (21.4.1975) TT Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình  đưa những lời chỉ trích Mỹ và tuyên bố từ chức ... Phần sau là tóm lược trích đoạn văn bản về cuộc họp ngày 20.4.1975  được phía Bộ Ngoại Giao công bố và phía cơ quan CIA (2017) loan tải  nội dung tuyên bố từ chức của  TT Thiệu  vào ngày 21.4.1975 (dài 28 trang) - sau đó là  câu chuyện TT Thiệu rời Sài gòn vào tối ngày 25.4.1975.

  Điện văn của ĐS Martin gửi TS Kissinger về cuộc họp với TT Thiệu

 

Sài Gòn, 20 Tháng Tư 1975, 1645Z.

 

1. Sáng nay tôi ( Martin)  gặp Thiệu đưa ra tất cả các điểm được nêu trong mệnh lệnh số 9 trong phúc trình của tôi. Tôi mang theo bản tóm tắt mới nhất về tình hình quân sự thực tế tại các mặt trận  và phân tích so sánh lực lượng mỗi bên. Như các ông đã biết, đó là một bức tranh rất ảm đạm, và không thể tránh khỏi để kết luận rằng, nếu Hà Nội quyết định nhanh chóng tấn công để tiêu diệt thì Sài Gòn khó có thể cầm cự được hơn một tháng, kể cả với sự kháng cự khéo léo và kiên quyết nhất cũng chỉ có thể cầm cự được không quá ba tuần. Tôi nói rằng theo ý kiến của tôi là họ muốn Sài Gòn nguyên vẹn, không phải là một đống đổ nát.

 

 2. Thiệu hỏi về triển vọng viện trợ quân sự bổ sung. Tôi nói rằng câu trả lời có vẻ mơ hồ đối với tôi. Chúng tôi rất có thể nhận được thêm 350 triệu đô la, từ quốc hội nhưng ngay cả điều đó cũng không chắc chắn. Tôi nói rằng mỗi ngày trôi qua đầy ắp những tuyên truyền bất lợi đã che khuất  thực trạng ở Việt Nam.  Tôi đã rất hy vọng rằng trong hiện tại một  thực tế là nó sẽ bảo toàn cơ hội để có một vị thế đàm phán tốt hơn, nhưng  nó không thể đến kịp để thay đổi bảng phân tích mà ông ta vừa đọc. Cho đến bây giờ cán cân lực lượng hiện nay chống lại ông ta là áp đảo.

 

3. Tôi đã nói rằng bất cứ ai ngồi trên ghế của ông, Dinh Độc Lập ở Sài Gòn, Tòa Bạch Ốc, Điện Elysée, Điện Kremlin, hay ở Bắc Kinh, đều có một điểm chung. Họ không bao giờ có thể chắc chắn rằng họ đang nắm được toàn bộ sự thật. Một số  báo cáo bị che đậy vì lợi ích cá nhân hoặc vì quan liêu, những người khác vì sợ làm tổn thương ông ta,  vì họ sợ ông ta, một số người khác vì họ không muốn trở thành người truyền tải tin xấu. Dù lý do là gì, đôi khi rất khó để nhận định chính xác mọi thứ như chúng vốn có. Tôi nói rằng tôi chỉ nói chuyện với ông ta với tư cách cá nhân, không phải đại diện cho Tổng thống hay Ngoại trưởng, hay thậm chí với tư cách là Đại sứ Hoa Kỳ, mà với tư cách là một người đã theo dõi các sự kiện ở Đông Nam Á trong một thời gian rất dài và là người trong hai năm qua,  đã  hiểu được sự đan xen trong kết cấu của các vấn đề Việt Nam.  Một vài điều đã rất rõ ràng với tôi. Tình hình quân sự rất tồi tệ, và mọi người buộc ông ta phải chịu trách nhiệm về điều đó. Các thành phần chính trị, cả những người ủng hộ và kẻ thù của ông ta, đều không tin rằng ông ta có thể dẫn dắt đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Và kết luận của tôi là hầu như tất cả các tướng lãnh của ông ta, mặc dù họ sẽ tiếp tục chiến đấu, đều tin rằng việc phòng thủ là vô vọng, trừ khi có thể đạt được thời gian nghỉ ngơi một khi  tiến trình đàm phán bắt đầu, và họ không tin rằng điều này có thể khởi sự trừ khi Thiệu ra đi, hoặc ngay lập tức thực hiện các bước để bắt đầu  cho tiến trình đàm phán. Tôi nói,  tôi có cảm giác rằng nếu ông  không có quyết định sớm, các tướng lãnh của ông sẽ yêu cầu ông ra đi.

 

4. Thiệu chăm chú lắng nghe, ông ta hỏi liệu việc ông ta ra đi có ảnh hưởng đến cuộc bỏ phiếu trong Quốc hội hay không. Tôi nói rằng tôi nghĩ nó có thể đã thay đổi vào vài tháng trước, nhưng bây giờ sẽ không đủ thời gian để đảm bảo các khoản chi quân sự cần thiết. Nói cách khác, đề nghị từ chức nếu Quốc hội đảm bảo một mức độ phân bổ để miền Nam Việt Nam tồn tại, là một thỏa hiệp đã thuộc về quá khứ. Điều quan trọng, có lẽ, liệu nó có thể có tác dụng gì đối với phía bên kia hay không. Tôi nói tôi không biết câu trả lời, nhưng rõ ràng là hầu hết người Việt Nam đều nghĩ như vậy. Tôi nghi ngờ nó sẽ tạo ra nhiều khác biệt cho họ. Bản thân họ không chống lại cá nhân ông ta, mà chống lại bất kỳ nhà lãnh đạo mạnh mẽ nào. Họ sẽ khăng khăng đòi một người lãnh đạo yếu kém hơn nhiều. Nhưng điều quan trọng là thời gian. Đối với Việt Nam, bây giờ thời gian là thứ thiết yếu nhất. Nếu có thể tránh được sự hủy diệt của Sài Gòn, nếu một nước Việt Nam độc lập có thể tiếp tục tồn tại, người ta có thể hy vọng, rằng mọi thứ sẽ được cải thiện. Thiệu hỏi tôi nghĩ gì về tương lai của Lào. Tôi nói rằng, từ cuối Hội nghị năm 1962, tôi đã thấy rất rõ ràng rằng Hà Nội có thể tiếp quản nó bất cứ lúc nào phù hợp với mục đích của họ, nếu phe không cộng sản ở Lào vẫn không có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Cuộc diện hiện tại có thể đã đạt được từ nhiều năm trước, nếu chúng tôi sẵn sàng nhượng lại toàn quyền kiểm soát miền Đông Lào.

 

5. Cuộc trò chuyện diễn ra trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ. Tôi sẽ gửi bản văn đầy đủ khi có thời gian. Ông ta hoàn toàn hiểu điểm cốt yếu trong đánh giá cá nhân của tôi rằng  các sự kiện diễn ra quá nhanh, khó có  thời gian dành cho việc suy ngẫm, và rằng nếu ông  không hành động sớm, các sự kiện sẽ ập đến với ông ta. Tôi đã nói rõ ràng rằng tôi đang nói hoàn toàn với tư cách cá nhân, và  tôi cũng như Washington không đề nghị ông ta từ chức.

 

6. Thiệu nói rằng ông ta sẽ làm những gì ông ấy nghĩ là tốt nhất cho đất nước. Tôi nói tôi biết rằng ông ta sẽ hành động. Ông ta sẽ suy nghĩ về nó. Ông ta có thể làm được. Ông ta rất có thể tìm kiếm  những phương án giúp ông ta dẫn trước đối thủ, nhưng thời gian thì có hạn.  Cân bằng lại, tôi đoán là ông ta sẽ sớm ra đi bằng cách này hay cách khác. Nếu các tướng lãnh của ông ta cho thêm vài ngày nữa, ông ta có thể nghĩ ra một sự từ chức kịch tính sẽ có hữu ích. Trân trọng. (Theo BNG/FRUS ngày 20.4.1975: «  Message From the Ambassador to Vietnam (Martin) to Secretary of State Kissinger »).

 

Bài diễn văn từ chức của TT  Thiệu được phổ biến trên thư viện online của cơ quan CIA ngày 11.1.2017 - bản văn thiết lập ngày  21.4.1975

 

"..."  Trước hết, tôi xin lỗi  hôm nay tôi nói chuyện trực tiếp  mà không có đọc thông điệp trước qúy vị và trước quốc dân hay anh em chiến sĩ, cán bộ. Cũng vì vấn đề cấp bách đòi hỏi một  quyết định cấp bách và phải được bảo vệ sự kín đáo tối đa vì lý do an ninh quốc gia. Cho nên tôi mạn phép mời Quốc hội lưỡng viện, Tối cao pháp viện, các cơ quan hiến định và tất cả quý vị với một  thời hạn rất là ngắn ngủi ở trong một khung cảnh đáng lẽ phải là khác hơn ở Dinh Độc Lập.

 

Đây là một cuộc nói chuyện rất quan trọng, nhưng nó đã không được thông báo trước. Vì lý do an ninh quốc gia và vì tầm quan trọng của cuộc nói chuyện đối với an ninh quốc gia, tôi xin đồng bào và các anh chị  cán bộ, chiến sĩ  toàn quốc hãy hiểu cho. Nếu thời gian cho phép, tôi đã triệu tập một phiên họp toàn thể của cả hai viện của quốc hội với sự hiện diện của tòa án tối cao và các tổ chức quần chúng và tôn giáo khác nhau, ðể tôi có thể giải quyết tình huống mà tôi sẽ trình bày chi tiết ngày hôm nay. Tôi có thể yêu cầu qúi vị  rộng lượng thứ lỗi cho tôi vì đã giải quyết vấn đề cấp bách này theo cách không hoàn toàn phù hợp với nghi thức. "..."

 

Cái bản văn hiệp định đó là bản văn hiệp định Hoa Kỳ bán miền Nam Việt Nam cho cộng sản. Và tôi đã có đủ can đảm nói với ông Ngoại trưởng Kissinger lúc đó  nếu như ông chấp nhận bản hiệp định này, nghĩa là ông chấp nhận bán cái miền Nam này cho cộng sản. Còn tôi mà chấp nhận cái bản văn hiệp định này thì tôi cũng chấp nhận phản quốc, bán cái dân tộc và đất nước miền Nam cho cộng sản. Nếu như ông chấp nhận bản hiệp định  vì lý do riêng tư  tôi không biết, nể nang nhau, đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán – chớ tôi là người Việt Nam, tôi không chấp nhận.

Bản văn hiệp định đó là một bản văn mà tôi đã từ chối, tôi đã phản đối trong 3 tháng trời (tháng 10.1972 đến tháng 1.1973 ). Và trong 3 tháng trời ấy chỉ có 3 điểm chánh mà tôi tranh đấu sống chết. Và sự tranh đấu của tôi được chứng minh một cách rõ ràng bởi mỗi một lần tôi mời họp có ông chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền , ông chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn, ông Tổng trưởng ngoại giao, ông chủ tịch Tối cao pháp viện, có Phó tổng thống, đại tướng Tổng tham mưu trưởng và Thủ tướng, thỉnh thoảng có một vài nhân vật chính trị khác. Ba cái điểm mà tôi cho là mất nước:

Đầu tiên là một chính phủ ba thành phần ở trên thượng tầng chỉ huy hai chính phủ là chính phủ VNCH và chính phủ của Mặt trận giải phóng, và cái chính phủ liên hiệp ba thành phần đó được đặt để cho tới tỉnh, quận, xã, ấp. Tôi cho đó là một cái chính phủ liên hiệp, dù dưới hình thức nào, dù ở cấp bậc nào, tôi cũng không chấp nhận và tôi không chấp nhận cái chuyện đó từ 5, 7 năm trước.  Cho nên, đừng có nói gì tới ấp cho tới xã, mà ngay cả trung ương tôi đã không chấp nhận 3 thành phần, 4 thành phần và 2 thành phần tôi cũng không chấp nhận, cho nên tôi đã nói không chấp nhận !.

 

Thứ hai, họ nói rằng ở Đông Dương chỉ có ba nước là Cao Miên, Ai Lao và Việt Nam. Tôi hỏi ngoại trưởng Kissinger, Việt Nam nào? Việt Nam của Sài Gòn hay Việt Nam của Hà Nội? Nếu mà ông chấp nhận bản văn này là ông chấp nhận cái Việt Nam của Hà Nội. Theo cộng sản, Việt Nam này bao gồm cả miền Bắc và miền Nam. Tôi không chấp nhận. Tôi muốn trở về nguyên thủy hiệp định Genève là có hai quốc gia Việt Nam, hai chính quyền Hà Nội và Sài Gòn, tôi gọi họ là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, họ phải kêu tôi là Việt Nam Cộng hòa không xâm phạm lẫn nhau, lấy vĩ tuyến 17 và lấy hiệp định Genève làm căn bản, chờ đợi ngày thống nhất bằng phương tiện hòa bình và dân chủ, dù cho ngày đó không biết là ngày nào. Tôi bác bỏ cái chuyện đó. Tôi nói trở về hai miền Nam Bắc, hai quốc gia riêng biệt có thể vô Liên Hiệp Quốc, giữ cái vĩ tuyến 17, giữ vùng phi quân sự chờ ngày thống nhất.


Điểm thứ ba là đối với quân đội miền Bắc Việt Nam,  thì ông Ngoại trưởng Kissinger chấp nhận là quân đội Bắc được quyền ở trong miền Nam một cách hợp pháp, đương nhiên. Tôi nói điểm này là điểm quan trọng nhất.  Không có gì kỳ lạ hơn việc những kẻ xâm lược, sau khi chiến tranh kết thúc và hòa bình lập lại, có quyền để lại quân đội của chúng mãi mãi trên lãnh thổ của người khác.  Tôi nói điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất là quân đội Bắc Việt phải rút lui về Bắc. Ông Kissinger trả lời với tôi rằng: “Cái chuyện này thương thuyết với Nga Sô, Trung Cộng đã 3 năm nay không được, Mỹ chịu thua”.  “...”

 

Con số 722 triệu đô la mà Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford yêu cầu quốc hội không đủ cho miền Nam Việt Nam và các lực lượng vũ trang chống lại quân cộng sản miền Bắc Việt Nam và ổn định tình hình quân sự để bắt đầu các cuộc đàm phán nghiêm túc. Những người cộng sản biết điều này, và họ chỉ cần tận dụng để thúc đẩy dành chiến thắng quân sự mà không cần đàm phán. Để đạt được mục tiêu mà Hoa Kỳ mong đợi - đó là ổn định tình hình quân sự để tiến hành các cuộc đàm phán trên cơ sở hiệp định Paris và do đó đạt được một giải pháp chính trị - phải có hơn 722 triệu đô la. Hơn nữa, phải có B-52 để trừng phạt cộng sản miền Nam và nếu có thể là cả cộng sản miền Bắc. Cũng cần phải có xe tăng, trọng pháo, thiết bị, súng lớn nhỏ, và đạn dược. những thứ này phải được gửi vào liên tục, liên tục, liên tục và ngay lập tức. Điều đó  không phải là vấn đề của vài tháng hay vài tuần, mà là vấn đề của vài ngày. Các khí tài này phải dồi dào  hầu trang bị cho các sư đoàn để đánh với 20 sư đoàn Bắc Việt. Tôi thách thức - giả sử quân đội của miền Nam Việt Nam Cộng Hòa rút đi - quân đội Hoa Kỳ tiến vào với quân số ngang bằng với quân đội VNCH và với cùng số lượng vũ khí và đạn dược và không có B-52  thì quân đội Hoa Kỳ có thể đối phó với cộng sản trong bao nhiêu ngày?  Vậy làm thế nào chúng ta có thể được bảo để làm điều đó? Do đó, thật phi lý, bất công và mâu thuẫn khi nói rằng tôi là một người không muốn đàm phán. Nếu tôi không có thiện chí đàm phán thì làm sao hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được ký kết?  Mặc dù thỏa thuận đó là một thỏa thuận què quặt, tôi phải chấp nhận nó. Tôi đã thể hiện thiện chí tối đa khi nhận nó.  Chúng tôi đã thể hiện thiện chí tối đa khi chấp nhận văn bản của một thỏa thuận không đáp ứng các lý tưởng và tiêu chuẩn của chúng tôi. chúng tôi chỉ mong đợi ba điều: Thiện chí của những người cộng sản và chủ nhân của họ - Liên Xô và Trung Cộng.  Điều thứ hai chúng tôi mong đợi là hành động cấp cao mạnh mẽ giữa các quốc gia thống nhất, Liên Xô và Trung cộng. Điều thứ ba chúng tôi mong đợi là đủ viện trợ quân sự và kinh tế để cho phép chúng tôi đương đầu với quân Bắc Việt Nam. Không có điều nào trong số này đã thành hiện thực. “...”

 

Người Mỹ đánh giặc ở đây, không đánh được, đi về. Đặt ra  cái chương trình Việt Nam hóa, chúng ta chấp nhận dù không muốn Việt Nam hóa. Có Việt Nam hóa rồi, hứa  cộng sản hành động thì sẽ phản ứng mà không phản ứng. Thì chỉ còn có một thứ tối thiểu là đưa đồ cho người ta đánh  mà không đưa. Thì thử hỏi cái đó là cái gì? Thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc.

 

Sở dĩ tôi từ chức hôm nay là bởi vì hôm nay ở bên Hoa Kỳ, Quốc hội đưa vấn đề viện trợ ra mổ xẻ. Tôi nghĩ rằng cái hành động tôi từ chức hôm nay, biết đâu ngày mai từ cái chỗ 322 nó lên 722 hay nó lên 1 tỉ mấy.  Rồi thì tới tấp cầu hàng không chở xe tăng, đạn, pháo  qua đây viện trợ, viện trợ, viện trợ. Tôi hy vọng như vậy, để coi Quốc hội Hoa kì có đọc ...

 

Tôi cũng hy vọng rằng trong cái lúc mà tình thế quân sự căng thẳng tại Quân Khu III Quân Khu IV, ông Thiệu đi rồi, còn ông TT Hương thì biết đâu còn 3, 4 ngày, còn 1 tuần thì chuyện nó có thể lật được. Nếu như tôi để ngày mai ngày mốt mà tôi mới từ chức, mà cộng sản thực sự nó tấn công thì e nó quá trễ. Lúc đó nó quá dở, trễ quá rồi làm không được. Quốc hội Hoa kỳ viện trợ 3 trăm rưỡi, để trễ quá 3 trăm rưỡi cũng không lên 722 được. Không sớm hơn mà không trễ hơn, bởi vì tôi nghĩ rằng: Cái thời gian tính mà ngày hôm nay còn thay đổi cục diện quân sự của cả chiến trường miền Nam. (Ghi chú: đoạn văn viết chữ nghiêng trích từ video clip người viết upload lên Youtube vào  ngày 23.2.2014 Phần audio lấy trên net, phần hình ảnh của TV Histoire, Pháp:« Diễn văn từ chức của TT Ng V Thiệu 21.4.1975»).

 

Lý do thứ hai của việc từ chức, đây là một trong những điều tôi đã nói trước đó. Tôi nghĩ rằng việc từ chức của tôi là một sự hy sinh rất nhỏ với tất cả người dân và các lực lượng vũ trang của chúng ta sẽ nhận được nguồn viện trợ dồi dào để chiến đấu và bảo vệ lãnh thổ còn lại, và nếu không có sự hiện diện của tôi, các cuộc đàm phán trong tương lai với những người cộng sản, để có thể giúp bảo vệ một nền tự do và dân chủ cho miền Nam và giành quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam theo tinh thần của Hiệp định Ba-Lê. Tôi kêu gọi tất cả những người, tổ chức, tôn giáo và chính trị gia, những người cho rằng tôi là kẻ cản trở hòa bình và cho rằng tôi bất lực trong việc mang lại hòa bình và bảo vệ miền nam đã không thể đánh bại cộng sản và lập lại hòa bình, hãy tiếp tay giúp Tổng thống Trần Văn Hương đem lại hòa bình, danh dự, tự do, ấm no, dân chủ, bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Paris mà CSVN bắt buộc phải tôn trọng, và thực hiện quyền dân tộc tự quyết của nhân dân miền Nam như trong Hiệp định Ba-Lê. Tóm lại, tôi không muốn bất cứ ai sử dụng cá nhân tôi - tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - như một cái cớ để ngược đãi đất nước này. Kể từ giờ phút này trở đi, không thể viện cớ đó nữa và bây giờ phải thể hiện sự chân thành và trung thực của mình. "..."

 

Thưa quý vị, đồng bào và anh chị em

 

Tôi đã phục vụ đồng bào, anh chị em trong 10 năm qua. như tôi đã nói, tôi không thiếu can đảm. Không phải là bất kỳ cuộc biểu tình hay vu khống nào có thể làm tôi nản lòng và mất tinh thần và buộc tôi phải từ chức một cách vô nghĩa và vô trách nhiệm, cũng không phải vì chịu trước áp lực của đồng minh, cũng không phải vì  những khó khăn. Tôi từ chức nhưng không đào ngũ. Kể từ giờ phút này, tôi đặt mình vào sự sử đụng của tổng thống, đồng bào và quân đội. Khi tôi từ chức, ông Trần Văn Hương sẽ trở thành tổng thống, và đất nước chúng ta sẽ không mất gì cả. Biết đâu đất nước ta lại có thêm một chiến sĩ ra mặt trận. Kề vai sát cánh cùng đồng bào và chiến sĩ bảo vệ  đát nước.  Giờ đây, tôi xin cám ơn đồng bào, quý vị, anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, và tôi xin từ biệt.

Tôi xin nhắc lại  yêu cầu của tôi, yêu cầu Lưỡng Viện Quốc Hội, và Tối Cao Pháp Viện chấp nhận với sự hiện diện của quý vị, theo  đúng điều 55 của Hiến Pháp để cho Phó tổng thống Trần Văn Hương tuyên thệ nhậm chức Tổng thống.  Cảm ơn.

 (Theo tài liệu của CIA, thiết lập ngày 21.4.1975, chấp thuận cho phổ biến ngày 15.6.2010, loan tải trên thư viện online của cơ quan CIA ngày 11.1.2017: « TEXT OF THIEU'S RESIGNATION SPEECH ».)

 

 Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn

( Trích đoạn theo tường thuật của  Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận, tháp tùng phái đoàn TT Thiệu rời Sài Gòn  đi Đài Loan  tối ngày 25.4.1975).

 

 “ ... Vào lúc 5 giờ Thomas Polgar gọi chúng tôi bốn người gồm có tướng Timmes, anh Joe Kingsley và một nhân viên khác rồi hỏi chúng tôi là các ông có rành đường phố Sài-Gòn ban đêm không. Chúng tôi đều gật đầu. Thế thì tốt, Polgar tiếp, tôi muốn các ông giúp tôi đưa Thiệu và cựu Thủ tướng Khiêm đi Đài Loan tối nay…”   Đó là theo lời kể của ông Frank Snepp trong cuốn Decent Interval, trang 434. "..."

Chúng tôi lần lượt ra xe và yêu cầu họ mở cốp sau. Tôi bỏ cái samsonite vào, (Lúc ông Polgar đang viết, tôi đã bỏ cây K54 vào samsonite ) hai khẩu súng nhỏ va chạm vào nhau khua lộp cộp. Trong sách của Frank Snepp có nhắc tới chuyện này. Ông có nghe tiếng kim loại khua khi chúng tôi xếp sắc tay vào cốp xe, và có thể nghĩ đó là tiếng va chạm của vàng bạc, châu báu!

Liền sau đó Tổng thống Thiệu, Đại tướng Khiêm, Polgar, Timmes cùng ra xe. Đại tướng Khiêm ngồi xe trước với ông Polgar. Tổng thống Thiệu ngồi xe sau với tướng Timmes; ông ngồi giữa tướng Timmes và Đại tá Đức, Trung tá Chiêu ngồi ghế trước với tài xế là ông Frank Snepp. Chúng tôi chia nhau vào hai xe còn lại. "..."


Đúng 9 giờ 15 phút, giờ Sài-gòn.- Buồng máy máy bay tắt đèn. Phi cơ từ từ lăn bánh ra phi đao, đem theo hai vị lãnh tụ quốc gia, một tướng lãnh Mỹ và 9 “quan” tùy tùng, hộ vệ! Chiếc phi cơ lượn một vòng trên bầu trời “đen tối” của không phận Sài-Gòn, rồi hướng về biển Đông…

 

Danh sách phái đoàn do cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trình  lên Tổng thống Trần Văn Hương có nội dung như sau: (Tổng thống Thiệu viết tay)

 

Kính trình: Tổng  thống Trần Văn Hương

Thưa cụ, Để thực hiện công cụ giao phó, tôi kính xin cụ đồng ý cho những bác sĩ quan sau đây gọi là thành phần tối thiểu cần thiết để giúp tôi, đi theo tôi trong suốt thời gian công du: 1. Đại tá Võ Văn Cầm 2. Đại tá Nguyễn Văn Đức 3. Đại tá Nhan Văn Thiệt 4. Đại tá Trần Thanh Điền 5.Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu 6. Thiếu tá Hồ Vương Minh 7. Đại úy Nguyễn Phú Hải (giờ không có mặt) 8. Phục hồi chức năng viên (chờ không có mặt). Ngoài ra, Cựu Thủ tướng Đại tướng Trần Thiện Khiêm cũng cần theo các sĩ quan và dân sự sau đây: 1. Trung tá Đặng Văn Châu - 2. Thiếu tá Đinh Sơn Thông -3. Thiếu tá Nguyễn Tấn Phận -4. Ông Đặng Vũ (giờ không có mặt).  Đại tướng Trần Thiện Khiêm nhờ tôi trình cụ chấp thuận ./. Kính chào Tổng thống (ký tên Thiệu) . Tổng thống Trần Văn Hương phê duyệt, Đề ngày 25/4/75, và ký tên Trần Văn Hương. ( Theo Bất Khuất Net: « Những ngày cuối của TT Ng. V.Thiệu ở Sài Gòn » - Thiếu tá NgT Phận: Tháng 4.1975 phụ trách an ninh cho Đại Tưóng Trần Thiện Khiêm. - Tháp tùng phái đoàn cựu Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm rời khỏi Việt Nam vào buổi tối ngày 25-4-1975).

 

Điều mà  TT Nguyễn Văn Thiệu lên án Mỹ nêu trên ... Thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính ngĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc là có nguyên do....Vì  vào ngày 21.1.1973, TT Thiệu đã phúc đáp tối hậu thư của TT Nixon (20.1.1973),   buộc TT Thiệu phải ký tắt vào bản Hiệp định Paris . Trong thư phúc đáp gửi TT Nixon, có đoạn văn với nội dung : " Trước những tuyên bố của Ngài rằng viện trợ của Hoa Kỳ cho VNCH sẽ bị cắt đứt nếu tôi không tham gia cùng Ngài, dựa trên cơ sở đảm bảo mạnh mẽ của  Ngài  về việc tiếp tục viện trợ cho Chính phủ Việt Nam sau khi ngừng bắn, tôi  chấp nhận lịch trình của Ngài đã đề ra liên quan đến việc ký tắt  thỏa hiệp vào ngày 23 tháng 1 năm  1973" . ( Theo  Thư viện BNG/FRUS  ngày 21.1.1973: « Letter From South Vietnamese President Thieu to President Nixon »).

 

Xem ra qua chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã dùng cuộc chiến này để "... đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán". Trước đó, có thể vì lo lắng cho tương lai khi quan hệ với Mỹ, vào năm 1957:  Trong cuộc gặp gỡ với TT Eisenhower, TT Diệm yêu cầu Mỹ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam - « During the meeting with Eisenhower, Diệm asked about the American commitment towards the defense of South Vietnam.». Bốn năm sau, năm 1961: Vào ngày 18 (tháng 10), TT Diệm nói rằng ông ta không muốn quân đội Hoa Kỳ tham gia với bất kỳ nhiệm vụ nào. Ông lặp lại yêu cầu về một hiệp ước phòng thủ song phương «On the 18th, Diem said he  wanted no U. S. combat troops for any mission. He repeated his request for a bilateral defense treaty » ( page 26/197) . Vì thế  việc “yêu cầu Mỹ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam” và yêu cầu ký kết ” hiệp ước phòng thủ song phương  đã không còn lý do tồn tại sau cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963.

 

Sang đến thời  Đệ II  VNCH, một thời gian sau cuộc đảo chánh, vào  năm 1965 chính phủ Phan Huy Quát  đã « “INVITE " the United States to send the Marines   » đến Việt Nam, trái ngược với chủ trương thời Đê I VNCH là "wanted no U. S. combat troops... “  Sau  8 năm  Mỹ đem quân vào Việt Nam, dẫn đến kết quả  là TT Thiệu bị buộc phải thi hành tối hậu thư (1.1973), để rồi hai năm sau dẫn đến việc khai tử  nền Đệ II  Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30.4.1975.

-- Đào Văn

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thế giới đã phải đối mặt với muôn vàn hỗn loạn và khó khăn trong những năm 2020. Sau đại dịch COVID là các cuộc xung đột và chiến tranh nổ ra ở Châu Âu, khiến cho giá cả lương thực và nhiên liệu tăng cao chưa từng thấy. Ngoài ra, biến đổi khí hậu đang gây ra những sự kiện thiên tai thảm khốc chưa từng có. Những cụm từ “chưa từng có,” hay “chưa từng thấy” đã trở nên quá quen thuộc đến mức nhàm tai.
“Trung Cộng muốn đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam để đánh lạc hướng và cầm chân quân đội Bắc Việt, ngăn chận cuộc tổng tấn công Miền Nam đang tiến hành,” Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng VNCH, ông Bửu Viên nói với chúng tôi ngay sau cuộc rút quân khỏi Pleiku (15/2/1975). Ít lâu sau, lại được nghe Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc cho biết sau một cuộc Họp Nội Các, rằng: “TC có liên lạc và đề nghị một kế hoạch để tiếp cứu VNCH, nhưng TT Thiệu đã từ chối.” Vào thời điểm ấy thì chúng tôi cho rằng câu chuyện TC muốn can thiệp để ngăn chận cuộc tấn công của BV là hoang tưởng, viển vông nên không để ý, và sau này cũng quên không hỏi thẳng TT Thiệu.
Vào thế kỷ 18, Đảng Dân Chủ Cộng Hòa (Democratic Republican Party) được gọi tắt là Cộng Hòa (Republican) hoạt động ở Hoa Kỳ do Thomas Jefferson và James Madison thành lập, nhằm chống lại chủ trương và chính sách của Đảng Liên Bang (Federalist Party) lãnh đạo bởi Luật Sư Alexander Hamilton hoạt động mạnh về kinh tế, xã hội, ngoại giao...
Các di tích bằng đá gọi là megalith rải rác khắp nơi trên thế giới, tiếng Việt gọi là “cự thạch” (“cự” có nghĩa là lớn như trong cự phách, cự đại, cự phú, dịch prefix mega; thạch là đá)...
LTS. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là người được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy thác nhiều công việc trong những ngày tháng cuối, trước khi Sàigòn sụp đổ . Tại Hoa Kỳ, sau 1975, ông là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rộng rãi như "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập", "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Khi Đồng Minh Nhảy Vào", và sắp xuất bản cuốn BỨC TỬ VNCH - KISSINGER VÀ 8 THỦ ĐOẠN NHAM HIỂM. Bước vào tháng Tư, mời đọc bài bài viết đã đăng trên báo xuân Việt Báo Ất Dậu (2005), vừa được tác giả gửi lại bản có hiệu đính.
Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng và chưa có bảng thống kê về ngôn ngữ, kể từ khi có mặt loài người sống trên hành tinh trái đất này. Có hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn ngôn ngữ khác biệt nhau, và chưa có ai qủa quyết con số chính xác về ngôn ngữ từng được sử dụng trong lịch sử phát triển của xã hội con người...
Cho dù Hoa Kỳ trong thế yếu không còn thúc đẩy Trung Quốc dân chủ hóa nhưng bù lại cả hai chính quyền Bush (con) và Obama đều bang giao với Trung Quốc như một đối tác trách nhiệm (responsible party). Thực tế trái ngược vì tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh tăng theo đà phát triển kinh tế nên Trung Quốc không còn muốn nép mình trong trật tự thế giới tự do (liberal world order) do Mỹ lãnh đạo...
Tháng Ba là tháng vinh danh những đóng góp của người phụ nữ cho xã hội, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở nhiều nước khác. Nhà văn người Anh Charlotte Brontë (1816-1855) đã viết trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của bà “Jane Eyre,” được xuất bản vào năm 1847, rằng, “Tôi không phải là chim; và không có cái lưới nào bẫy được tôi: Tôi là một con người tự do với ý chí độc lập.”Charlotte Brontë đã khai hỏa trên mặt trận văn chương cho cuộc chiến kéo dài hàng nhiều thế kỷ để đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội mà tới hôm nay vẫn chưa thực sự chấm dứt. Những thanh thiếu nữ tại Afghanistan đã và đang bị cấm thừa hưởng nền giáo dục học đường mà đáng lý ra các em phải có được! Nhưng, không phải chỉ ở thời đại của tác giả “Jane Eyre” người phụ nữ mới gióng lên tiếng nói tự do và độc lập mà trong lịch sử nhân loại từ xưa tới nay người phụ nữ đã bao lần lên tiếng, xuống đường để tranh đấu cho tự do và độc lập của họ cũng như của xã hội và đất nước họ.
Vào thập niên 1970 kinh tế và dân số Ấn Độ và Trung Quốc tương đương với nhau nhưng rồi 30 năm sau đó tăng trưởng bên Tàu vượt xa Ấn. Nếu so sánh Trung Quốc với nhiều nước đang mở mang khác như Ai Cập, Brazil, Indonesia…kết quả đều tương tự. Câu hỏi đặt ra nơi đây tại sao tham nhũng ở Trung Quốc không cản trở tăng trưởng, mà trái lại nền kinh tế bốc hỏa nhanh chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại?
Vào đầu thế kỷ 20, xã hội Nga cũng tương tự như xã hội Pháp trước cuộc cách mạng 1789 vậy. Một mặt triều đình thối nát, công quỹ kiệt quệ. Mặt khác giáo hội Chính Thống Giáo cũng liên kết với vương quyền và giới quý tộc bóc lột người dân. Cuộc cách mạng lật đổ Nga Hoàng năm 1917 không phải hoàn toàn, hoặc chủ yếu, do người Cộng Sản Bolshevik. Cũng như cuộc cách mạng Pháp và những cuộc cách mạng khác, thành quả có được là do sự đóng góp của nhiều cá nhân và đảng phái khác nhau. Tuy nhiên tổ chức nào nghiêm túc, chặt chẽ và kỷ luật sẽ nắm được thế thượng phong...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.