Hôm nay,  

Toàn Văn: Thư Của Ht Quảng Độ Gửi 4 Lãnh Tụ Csvn

24/01/200000:00:00(Xem: 5140)
Liên Minh Việt Nam Tự Do xin được hân hạnh gởi đến quí vị toàn văn lá thư ngày 15/01/2000 của Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, gởi cho những người lãnh đạo của nhà cầm quyền Hà Nội để yêu cầu trả tự do cho mọi tù nhân lương tâm và chính trị; giảm thuế cho nhân dân; phục hồi quyền hoạt động của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất; và hủy bỏ án tử hình.
Chúng tôi kêu gọi quí vị góp phần phổ biến rộng rãi lá thư này.
Paris ngày 22 tháng 1 năm 2000
Liên Minh Việt Nam Tự Do


Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Viện Hóa Đạo
PL.2543 Số 16 - VHĐ/VT
Sài Gòn, Ngày 15 tháng 1 năm 2000

Đồng kính gửi:
Ông Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Ông Trần Đức Lương, Chủ tịch nước CHXHCNVN
Ông Phan Văn Khải, Thủ tướng Chính phủ CHXHCNVN;
và Ông Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội CHXHCNVN

Thưa quý Ngài,
Tôi còn nhớ rõ đầu năm 1946, lần đầu tiên đồng bào Phật giáo tổ chức lễ Giổ Tổ Hùng Vương. Nhân dịp này đồng thanh gửi bức điện tín cho đồng bào đang kháng chiến ở Nam Bộ: “Kính chúc và ủy lạo hết thảy các anh chị em nhất tâm dũng mãnh tinh tiến, kháng chiến đến cùng giành độc lập cho nước Việt Nam ta và thực hiện chủ nghĩa từ bi cứu thế cho các nước văn minh cùng biết”.
Tôi còn nhớ rõ tháng 4 năm 1946, “Việt Nam Phật Giáo Hội” được thành lập, với mục đích liên kết Phật giáo đồ cùng với đồng bào cả nước “chống ba thứ giặc là: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”.
Tôi cũng còn nhớ hôm 30.8.1947, nhân ngày Rằm tháng Bảy âm lịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gủi Hội Phật Tử Việt Nam, trong có câu rằng: “Nước có độc lập, thì đạo Phật mới dễ mở mang. Bọn thực dân Pháp muốn cướp nước ta. Chúng đốt chùa chiền, phá tượng Phật, hành hạ Tăng Ni, tàn sát đạo hữu. Chúng hòng phá tan đạo Phật. Đức Phật là Đại Từ Bi, Cứu khổ Cứu nạn. Muốn cứu chúng sinh khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma”.
Những điều tôi nhớ trên đây là những bằng chứng lịch sử còn ghi lại trên báo chí thời ấy, đặc biệt trên báo Cứu quốc. Nhắc lại mấy sự kiện này, ý tôi muốn nhấn mạnh đến ba điều. Thứ nhất là ý chí và tâm thành của quần chúng Phật tử đối với nền độc lập dân tộc và an lạc cho mỗi con người. Thứ hai là nhấn mạnh đến ngôn ngữ cùng hành động đặc thù của người Phật tử, thuật ngữ gọi là chính ngữ và chính trị kiến, thể hiện qua hành động xã hội và bảo vệ quốc gia trong việc dẹp ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Thứ ba là hoàn cảnh của các tôn giáo nói chung. Phật giáo nói riêng, thời nạn ngoại xâm còn hoành phá quê hương.
Trong ba thứ giặc mà Phật giáo đồ cùng toàn dân đứng lên đạp đổ từ năm 1945, giặc ngoại xâm được thanh toán. Còn giặc đói, giặc dốt vẫn hoành hành như cũ. Đừng trách nhân dân và Phật giáo đồ lùi bước trước hai nạn giặc này, mà phải quy trách nhiệm cho các nhà lãnh đạo đất nước ngăn cản các thành phần dân tộc hoàn tất việc thanh toán giặc đói và giặc dốt.
Nghiêm trọng hơn, lời tiên liệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ngày Rằm tháng Bảy năm 1947 không xảy ra. Tuy nước có độc lập, nhưng đạo Phật không được mở mang. Từ trước tại miền Bắc, và sau năm 75 tại miền Nam, chùa chiền bị Đảng và Nhà nước chiếm dụng, tượng Phật bị phá hủy. Tăng Ni và Phật tử bị hành hạ, tù đày, tàn sát. Cả một chính sách từ hành xử đến luật pháp hòng phá tan đạo Phật. Bởi thế, từ 25 năm qua, các phong trào vận động cho nhân quyền và tự do tôn giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, do Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang lãnh đạo chỉ thực thi điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh 53 năm trước: “Muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn phải hy sinh tranh đấu”.
Nhân đây tôi cần đính chánh một ngộ nhận về danh xưng “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất”, mà Đảng và các cơ quan công quyền thường mắc phải. Chữ “thống nhất” không hàm riêng nghĩa đen là cộng lại các tổ chức, hệ phái, cộng lại các cơ sở vùng miền mà lý do thời cuộc tạm phân chia. Nghĩa đen này, Phật giáo Việt Nam đã hoàn tất và nhất thống từ 2000 năm qua. Chữ “thống nhất” trong danh xưng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, mang ý nghĩa rốt ráo và vô cùng hệ trọng. Vì nó bao hàm tính phát triển đặc thù, có một không hai của đạo Phật Việt Nam trên phương diện giáo lý giác ngộ và cứu khổ quần sinh, so với các nền Phật giáo trên thế giới. Trên mặt giáo lý, thống nhất là thống nhất hai phương hướng hành đạo Bắc tông và Nam tông, còn gọi là Đại thừa và Nguyên thủy. Sự thống nhất như thế, mới xảy ra lần đầu tại nước Việt Nam vào thập niên 60, do chính bằng lực trí tuệ của người Phật tử Việt Nam. Trên mặt dân tộc và xã hội, thống nhất là loại trừ lối phân biệt kỳ thị sai lầm, phi Phật giáo, thoát thai từ những khái niệm nhị biên quốc tế, để thống nhất giữa Đạo và Đời, giữa chư Tăng Ni với đại khối nam nữ Cư sĩ Phật tử. Thống nhất như thế là bước tiến mới trong tư tưởng và hành động đặc thù của đạo Phật Việt Nam. Không thống nhất theo quy trình này, tranh chấp sẽ tồn tại, căm thù còn chồng chất, lưỡng cực cứ phân chia, mà hậu quả khổ đau nhân dân phải gánh chịu.
Vì vậy, từ ngộ nhận trên mặt ngữ nghĩa đến lợi dụng quyền hành hủy bỏ chữ Thống nhất và ngăn cấm Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sinh hoạt tín ngưỡng, là đi ngược lại sự tiến hóa về tư tưởng và hành thế của một tôn giáo có mặt từ 20 thế kỷ qua trên đất nước này, đồng lúc đi ngược sự tự do tín ngưỡng của quần chúng Phật tử Việt Nam.
Nhân dịp Tết Canh Thìn sắp đến, tôi có ba điều thỉnh nguyện xin được quý Ngài lưu tâm thực hiện:
Tết là mùa đại hoan hỉ, đại đoàn tụ của dân tộc. Theo truyền thống nhân hậu của nền văn hiến Việt, mà nhiều triều đại hoàn kim thường thực hiện trong quá khứ lịch sử. Đó là việc tha tù và giảm thuế. vậy tôi kêu gọi Đảng và Nhà nước trả tự do cho tất cả tù nhân vì lương thức và tù nhân chính trị, bị tù đày vì bất đồng chính kiến hoặc biểu tỏ ôn hòa tín ngưỡng hay tôn giáo của họ. Đặc biệt trả tự do cho Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang. Xử lý thường vụ Viện Tăng Thống, năm nay 83 tuổi, bị giam cầm quản chế không lý do từ 18 năm qua.


Nước ta có luật lệ và tôn trọng luật pháp rất sớm. Khi Mã Viện đến xâm chiếm nước ta, đầu thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, đã điều tấu về vua Tàu rằng “luật của người Việt, so sánh với luật Hán hơn 10 điều”. Bộ “Quốc triều Hình luật” dưới đời Lê, vào thế kỷ 15, được các nhà luật học Âu Mỹ khen là một “hệ thống luật pháp tiến bộ so với những quan niệm pháp luật phương Tây cận đại”. Tinh thần nhân đạo và trọng người tài rất cao trong bộ Quốc triều hình luật. Điều 3, đề ra 8 điều được nghị xét giảm tội, đáng kể là nghị hiền, là những người có đức hạnh lớn, và nghị năng, là những người có tài năng lớn. Điều 16 quy định những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống cùng những người bị phế tật, phạm từ tội lưu trở xuống đều được miễn giảm và cho chuộc bằng tiền.
Thế mà ở thời đại văn minh tân tiến đầu thế kỷ 21 này, tại nước ta người bị tù tội trên tuổi 70 hay trẻ em dưới 15 tuổi bị giam nhốt quá đông trong các nhà tù và trại cải tạo. Nhiều trường hợp không được xét xử hoặc xét xử bất minh, phi luật pháp.
Ngoài ra, không thể quên rằng tám mươi phần trăm dân số nước ta là nông dân, hiện đang lâm cảnh đói khổ cùng cực, vì kinh tế suy sụp, vì sưu cao thuế nặng chồng chất. Tôi xin quý Ngài nhân dịp Tết ban bố việc giảm thuế cho nhân dân được nhờ.
Trên đây là thỉnh nguyện thứ nhất.
Thỉnh nguyện thứ hai, yêu cầu Đảng và Nhà nước để cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phục hồi quyền sinh hoạt tự do. Ngoài lý do tôn giáo của một Giáo hội dân lập nhằm hướng dẫn tu học cho quần chúng Phật tử, còn là lý do cứu nguy cấp thiết để chận đứng các chủ trương mê tín, tệ nạn xã hội, và suy thoái đạo đức đang hoành hành nước ta, đặc biệt trong thế hệ trẻ. Tiềm lực và hiệu lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một thực tế lịch sử, trên mặt quốc gia cũng như quốc tế, có thể đóng góp hữu hiệu cho việc tái thiết đất nước trên các lãnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội, kinh tế.
Tôn giáo là thực tại thiêng liêng của con người. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là nền tảng đạo lý, chứ không là hội đoàn thường tình được lập lên hay xóa bỏ như một công cụ nhất thời của chính trị.
Thỉnh nguyện thứ ba, yêu cầu Đảng và Nhà nước noi gương các nước văn minh trên thế giới bãi bỏ án tử hình.
Đành rằng nền pháp trị phải có những án lệnh để răn đe. Nhưng án tử hình không là thượng sách để chữa trị các tệ đoan xã hội. Thượng sách chính là sự ngăn ngừa bằng giáo dục và đức trị. Từ mấy năm qua, trung bình mỗi năm có từ 60 đến 100 án tử hình. Điều thấy rõ, là không nhờ các án tử hình răn đe này, mà nạn tham nhũng, nạn buôn xì ke ma túy, cướp của, giết người được giảm thiểu. Thế thì phải tìm căn do từ gốc mà chữa trị. Việc gốc phải nhờ đến đạo lý và giáo dục. Đạo lý không phô bày qua hình thức, như hiện nay dàn dựng qua các lễ hội gọi là truyền thống nghi ngút khói hương và áo quần sặc sỡ, cốt thu hút khách du lịch đồng thời phát triển dị đoan mê tín như một chính sách ngu dân. Đạo lý phải là sự phát triển tự do của những nền tín ngưỡng lâu đời dung hòa với nếp sống văn minh hiện đại. Giáo dục không thể chìm đắm như hiện nay trong mục tiêu duy ngã vụ lợi và chủ nghĩa kim tiền, biểu thị cho ý thức hệ chà đạp nhân phẩm.
Hai ngàn năm trăm năm trước, Đức Phật từng dạy qua nhiều bộ kinh, rằng “sự nghèo khổ là mẹ đẻ của vô luân và tội ác, như trộm cướp giết người”. Nên Đức Phật chỉ bày cho Phật tử cách làm ăn kinh tế, cách chi tiêu và tiết kiệm, tạo lập sự thành công, thịnh vượng trong xã hội làm phương tiện hoằng pháp, cứu cấp nhân dân.
Từ các thập kỷ 50 đến 80, Đảng và Nhà nước dựa vào viện trợ của phe Xã Hội Chủ Nghĩa mà sống. Nay khối Xã Hội Chủ Nghĩa ấy tan vỡ, Đảng và Nhà nước phải dựa vào khối tư bản Âu Mỹ. Việc thế sự như thế là chuyện bình thường. Nhưng điều quan tâm là đại đa số quần chúng cứ phải kéo dài sự hy sinh trên năm thập kỷ qua mà không thấy sinh lộ cho một đời sống no ấm và tự do. Hy sinh thân mạng và tài sản để giữ nước dưới các triều đại dân tộc Lý, Trần, Lê, nhân dân không oán than mà còn tích cực tham gia. Nhưng hy sinh dưới chế độ công an trị, dưới chế độ không tôn trọng nhân quyền và chính sách khủng bố nhân danh “đấu tranh giai cấp” thì chẳng còn ai thông cảm được.
Hoàn cảnh hiện nay là miếng đất mầu mở cho nạn tham nhũng, ma túy, trộm cắp, giết người phát triển. Có tuyên hàng trăm, hàng ngàn án tử hình cũng không thể giải quyết hoặc làm thối chí kẻ gây tội.
Điều 6 trong bản Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị của Liên Hiệp Quốc, mà Việt Nam ký kết tham gia, có ghi rõ “Mỗi người đều có quyền được sống với sự sống vốn có. Quyền này được pháp luật bảo vệ. Không ai được phép độc đoán tước đoạt mạng sống của bất cứ người nào”. Tiếc thay, Việt Nam chưa chịu ký kết tham gia nghị định thư số 2 liên hệ công ước nói trên và có hiệu lực từ ngày 11.7.1991, qua đó điều 7 quy định: “Không còn ai (thuộc các quốc gia ký nghị định thư) bị tử hình. Quốc gia sẽ dùng mọi biện pháp để bãi bỏ án tử hình trên lãnh thổ mình”.
Vì vậy tôi mong mỏi quý Ngài sớm lấy quyết định bãi bỏ án tử hình. Đối với hiện trạng ở nước ta, án tử hình mang trong nó hai mầm mống nguy hại, phi nhân bản. Bất sát, không giết người, là tinh túy của nền đạo lý Đông Phương. Cho nên, lưu án tử hình là thất nhân tâm và đi ngược đạo lý truyền thống. Lại nữa, trong một quốc gia chưa tôn trọng pháp quyền, chưa chấp nhận tam quyền phân lập như nước ta, việc xử án bất minh dẫn đến hành động giết người vô tội hay không đúng tội. Cho nên, lưu án tử hình là gây nhân không tốt làm gia tăng hậu quả của tội ác.
Lời ngay thật đầu năm của kẻ tu hành, mong các Ngài lưu tâm giải quyết, để nước Việt bắt kịp kỷ nguyên mới của thế giới năm 2000. Một thế giới vừa thủ tiêu xong thế lưỡng cực phân tranh, khiến cho nhìn đâu cũng chỉ thấy kẻ thù phải thanh toán, tàn sát, thay vì đón nhận tứ hải giai huynh đệ, hay tay bắt mặt mừng với người cùng nòi giống phải cưu mang.

Trân trọng kính chào quý Ngài.
Viện trưởng Viện Hóa Đạo Sa môn Thích Quảng Độ (ấn ký)

Bản sao:
- Kính gởi Viện Tăng Thống để kính thẩm tường
- Văn phòng II Viện Hóa Đạo GHPGVNTN tại Hoa Kỳ để thẩm tường
- Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế tại Paris để phổ biến
- Lưu hồ sơ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp để giành lại chủ quyền cho dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước Việt Nam, tiền nhân của chúng ta đã gian khổ cùng một lòng đánh đuổi bọn xâm lăng ra khỏi mảnh đất thân yêu mà Tổ tiên ta đã bao đời dầy công gầy dựng. Cho nên nhìn lại dòng lịch sử dân tộc từ Bắc vào Nam ở đâu và lúc nào cũng có những vị anh hùng dân tộc đứng lên liều mình cứu nước chống giặc ngoại xâm...
Dự án “Funan Techo Canal” nhằm phục hồi một hệ thống đường thủy đã được xây dựng và vận hành từ triều đại Đế chế Funan-Khmer [sic] có từ khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Công trình này nhằm cải thiện giao thông đường thủy trong lãnh thổ Cam Bốt. Con kênh này có chiều dài 180 km, kết nối 4 tỉnh: Kandal, Takeo, Kampot, và Kep. Mục đích chính của dự án này như một kết nối lại với lịch sử và nhằm cải thiện giao thông đường thủy cho các cộng đồng cư dân địa phương. Triển khai dự án này phù hợp với cam kết của Cam Bốt theo điều khoản 1 và 2 của Hiệp Định Sông Mekong 1995, với sự bình đẳng về chủ quyền, tôn trọng những quyền hạn và các lợi ích chính đáng..
Người nhập cư Việt Nam được biết đến với “đạo đức làm việc” mạnh mẽ của họ. Họ sẵn sàng bỏ ra nhiều giờ và hy sinh để đạt được mục tiêu của mình. Tính cần cù này đã giúp họ thành công trong nhiều lĩnh vực, bao gồm kinh doanh, giáo dục và các ngành nghề khác...
Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác...
Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức nhân viên Hoa Kỳ và hàng nghìn quan chức quân sự và ngoại giao của miền Nam Việt Nam. Các kênh truyền hình tin tức Mỹ đã phát đi những hình ảnh đau lòng về cuộc không vận hỗn loạn, trong đó có đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng tràn ngập ngoài cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Làn sóng đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Gerald Ford. Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân đội Mỹ đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa (1).
Giữa những hình ảnh cánh đồng hoa anh túc và những chiến hào sũng nước trong ký ức chung về Thế Chiến I, ít ai để ý đến sự hiện diện của các trại tù binh chiến tranh ở vùng đảo British Isles. Nhưng trong suốt cuộc chiến, Anh đã giam giữ gần 116,000 người trong các trại tù binh trên khắp đất nước, từ Cung điện Alexandra ở London đến một trang trại cũ trên Đảo Isle of Man. Trong số đó có một võ sĩ đấm bốc và nghệ sĩ biểu diễn xiếc người Đức tên là Joseph Pilates.
Cựu Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã qua đời vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Sáu 18-8-2023 tại Fountain Valley, California, hưởng thọ 98 tuổi. Ông sinh ngày 31-8-1926 tại Hà Đông. Trung tướng Phạm Quốc Thuần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Bộ Binh (Thủ Đức) ngày 20-8-1969...
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật học có câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Từ “sắc” trong câu kinh dùng để chỉ vật chất và những gì có hình tướng. Còn “không” là cái không bao giờ xẩy ra. Từ “không” được nhắc đến nhiều trong đạo Phật chính là “Chân Không Diệu Hữu”. Như vậy, “sắc tức thị không, không tức thị sắc” là nói đến “thật tướng” của vạn pháp và đấy chính là “vô tướng”, từ “cái không” do nhân duyên hợp lại thành “cái có”. Và, ngược lại, từ “cái có” tất yếu trở về “cái không”. Chu kỳ ấy là bất diệt, cứ tiếp nối nhau đến vô tận. Đó là cách tiếp cận theo triết học tôn giáo hay siêu hình học. Nhìn từ nhãn quan vật lý học, “cái có” có thể đến từ “cái không” được không? Theo thuyết Big Bang thì có vẻ là như thế. Vật chất tồn tại như ta nhìn thấy – hàng tỉ tỉ dải thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỉ tỉ ngôi sao, mỗi ngôi sao là một hệ thái dương có thể có nhiều hành tinh, mỗi hành tinh là một thế giới như quả đất chúng ta đang sinh sống – đến từ “cái không có gì”,
Nhân Lễ Tưởng Niệm Nhị vị Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông được tổ chức ngày hôm nay 13/08/2023 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng tiểu bang Victoria-Úc, Ban Tổ Chức có nhờ tôi chia sẻ đề tài “Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhà hoạt động chính trị chân chính”, dưới đây là một số điều tôi được biết về cuộc đời chính trị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
✱ Đs Anh/Đs Lodge: Đề xuất của Hồ Chí Minh về một hiệp định đình chiến - Nhu đã đáp lại rằng đề xuất này "không thực tế" nhưng có thể trở thành thực tế trong ba hoặc bốn tháng tới và đang được nghiên cứu. ✱ Báo Espresso, Italia: Ông Nhu sẵn lòng từ bỏ viện trợ Mỹ nếu đó là cái giá phải trả để loại bỏ sự hiện diện của người Mỹ - Nhu cho biết Việt Nam có thể tồn tại mà không cần người Mỹ - Ông Nhu phản ứng phẫn nộ khi người Mỹ muốn ông rời khỏi đất nước. ✱ Nhà báo M.West,Úc: Ông Nhu nói rằng ông muốn tất cả, lặp lại, tất cả các cố vấn Mỹ đều phải rời đi - Không có người Mỹ, chúng ta có thể thắng chiến tranh trong hai hoặc ba năm - Hiện nay trong ngoại giao Mỹ ở Việt Nam, không có đạo đức. ✱ Đại sứ Lodge: Chúng ta nên xem xét việc rút quân là một khả năng ngày càng gia tăng. Sự bắt đầu của việc rút quân có thể gây ra một cuộc đảo chính...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.