Hôm nay,  

Một tiếng thở dài

19/11/202211:33:00(Xem: 2786)
Truyện

nhuhao


Đến hôm nay tôi còn nghe tiếng Cố thở dài bảo Mẹ tôi: “Ôn vô dụng quá!” 

 

Hồi đó, sau thế giới chiến tranh, vừa hồi cư về Huế, gia đình tôi sống chật vật trên đồng lương giáo viên ít ỏi của Mẹ. Không phải dễ để nuôi tám miệng ăn: năm người lớn, ba trẻ con. Qua giao thiệp, quen biết Mẹ và hai Dì được người ta nhờ cậy đan áo len và công việc ấy đã đem thêm chút đỉnh tiền cho gia đình. Trong hoàn cảnh sau chiến tranh, áo len rất quý. Người ta đã mất đi những chiếc áo len tốt khi chạy về làng tránh bom đạn. Nay ai cũng cần áo len để qua mùa đông vì mùa đông của Huế rất lạnh, cái lạnh ẩm, buốt vào tận xương. Mưa dầm dã, ngày này qua tháng nọ. Qua Xuân mới có tí nắng ấm. 

 

Đan áo len xem như nghề của Mẹ và Dì. Tối nào ba cô cháu nội của Cố cũng thoăn thoắt đan. Không khung cảnh nào đấm ấm hơn: Mẹ và Dì chăm chú vào sợi len, Cố nhấp nước trà, trẻ con chúng tôi ê a tập đọc. Một gia đình nhỏ đùm bọc lẫn nhau qua cơn nghèo khó.

 

Cố quan sát Mẹ đưa sợi len qua lại với hai que tre và bảo: “Coi cũng dễ thôi, con dạy cho Ôn đan, Ôn giúp cho mau xong.” Mẹ phá lên cười: “Thôi, Ôn chơi với cháu đi”. Nhưng Cố, cháu nội của ông Hoàng đâu có biết chơi với cháu. Cố chỉ quen đọc sách ngâm thơ, chơi bài, nhắm rượu, hay trò chuyện với bè bạn, hàng xóm láng giềng.  Mọi chuyện khác trong nhà đã có người lo.

 

Cố thở dài: “Ôn vô dụng quá!”

 

*

 

Cố là cháu nội của Tĩnh Gia Vương, Ông Hoàng thứ bốn mươi chín, con của vua Minh Mạng. Cố về hưu lúc năm mươi tuổi. Lúc ấy ông ngoại tôi, con trai trưởng của Cố, đã làm quan ở Thanh Hoá, lo toan mọi việc. Cố đã sớm có những ngày hưu trí khá thong thả. Nhưng chiến tranh đột ngột chấm dứt cuộc sống an nhàn ấy. Thời chiến tranh Ông Bà Cố và hai Dì ở trong phủ làng Kim Long, sống với tí tiền dành dụm trước và nhờ có rau cỏ, hoa trái trong vườn để trao đổi, bán qua lại với hàng xóm. Mẹ không đưa chúng tôi về quê ngoại ấy và quyết định lánh nạn về quê nội ở làng Minh Hương. Các bác quen rộng, hiểu biết tình hình chính trị, gần dân tình, có thể che chở Mẹ và chúng tôi. Quê nội lại có nhà rộng, vựa đầy thóc, rẫy đầy khoai sắn và các bác rất lo lắng thương yêu chúng tôi.

 

Hết chiến tranh, vua Bảo Đại thoái vị, chấm dứt thể chế quân chủ và những trọng vọng dành cho hoàng tộc. Pháp ổn định lại quyền lực trong Nam (từ Quảng Trị đến Cà Mau); Việt Minh kiểm soát miền Bắc (từ Quảng Trị đến biên giới Việt Nam-Trung Quốc). Cũng như nhiều gia đình khác, gia đình chúng tôi phải chịu cảnh người Bắc, kẻ Nam: Ông ngoại và Ba tôi kẹt ở ngoài Bắc, bặt âm vô tín; Mẹ và ba anh em chúng tôi ở trong Nam, rời làng Minh Hương về Huế.

 

Mẹ đi dạy lại, gắng xếp đặt một cuộc sống bình thường. Mẹ thuê một căn nhà nhỏ trong một hẻm hẹp của Thành Nội để đón Ông Bà Cố và hai Dì về ở cùng. Mẹ lo ngại ở làng Kim Long không được an ninh cho Cố. Có người xem gia đình hoàng tộc như thuộc thành phần địa chủ, bóc lột; có người thì nghĩ vua quan là phong kiến hủ lậu. Mẹ phải gánh vác, thu xếp một cuộc sống khiêm tốn, yên ổn cho gia đình.

 

Sống với Mẹ và Dì, Cố rất được thương yêu, chiều chuộng, được lo cơm nước và áo ấm. Mẹ và Dì rất khéo tay mua đâu được vài thước vải tốt nên may cho Cố một bộ áo mới. Nhưng mãi không thấy Cố mặc, hỏi ra thì Cố bảo: “Đi chơi gặp thằng làm trong phủ hồi xưa thấy nó xanh xao nghèo khổ nên cho nó bộ áo rồi”. 

 

Ngày ngày Cố vẫn qua hàng xóm chơi bài tuy không còn có thú ăn thua như xưa, nhưng cũng đủ cho Cố vui cười. Tôi, cô bé sáu tuổi, ngoan ngoãn, dễ thương, được đi theo Cố. Cố đánh bài, tôi chơi với lũ trẻ. Xế chiều Cố cháu mới về nhà. Đến đầu xóm tôi tung tăng sung sướng khi đánh hơi nghe mùi mực nướng thơm phức. Ấy là ngày vui: người ta vừa trả tiền công đan áo. Cố cháu có tí ăn chơi trước bữa cơm tối: Dì Ý đập mực nướng và xé ra từng sợi nhỏ để Cố nhâm nhi với tí rượu đế; Dì cho tôi mấy cái râu mực để nhai chầm chậm, thưởng thức vị mằn mặn. Cố cháu nhìn nhau cười. Dì Ý chia vui: “Cháu thấy ngon không?” Dì Ý thương tôi nhất nhà!

 

Sau hơn một năm, công việc đan áo của Mẹ và hai Dì trở nên rất bận. Người ta đã bắt đầu biết đến ba chị em. Tiếng đồn từ Thành Nội ra phố: các cô vừa đẹp, vừa dễ thương, đàng hoàng và khéo tay. Hết người này đặt áo cánh, người kia thúc đan khăn quàng, người nọ mong có ngay chiếc áo khoác. Có ông chỉ lấy cớ hỏi hay xin đặt áo len để được nói chuyện với Dì Tâm hay Dì Ý, cả hai người đẹp chỉ mới ngoài hai mươi. Khách khứa tấp nập. Bận quá, Mẹ nghe lời Dì Ý, nuôi thêm anh Ứng (anh ấy khoảng 12-14 tuổi, người làng Minh Hương, mồ côi, được các bác nuôi lo từ nhỏ). Mẹ sắp đặt để anh Ứng đi giao hàng khi áo len đã đan xong và chăm sóc trẻ con chúng tôi, em út của tôi, Vinh, lúc đó mới 3, 4 tuổi.

 

Vậy là cuộc sống đã ổn định. Tiền đủng đỉnh vào đều đặn. Cố có thêm những thứ trà ngon để uống buổi sáng. Mùi mực nướng thơm phức trở nên quen thuộc hơn. Cơm tối nay có cả thịt hay cá. Tình hình kinh tế càng ngày càng khả quan hơn, tưởng sẽ tiếp tục êm đẹp. Tôi bỗng mắc bệnh thương hàn.

 

Thời ấy trụ sinh rất hiếm. Cố và hai Dì lo cuống lên. Mẹ khóc sướt mướt. Bác sĩ thương tình, tận tình chăm sóc tôi, liên tục cho truyền nước biển mà không nệ hà tốn kém. Vài tuần sau tôi mới qua cơn nguy kịch và được uống tí nước cháo thật loãng. Rồi tôi được xuất viện, về nhà. Cố luôn luôn ở bên cạnh giường bệnh, đút cho tôi từng muỗng nước cháo, an ủi tôi với chuyện cổ tích. Cố kiên nhẫn chăm sóc tôi qua bao nhiêu ngày và bao nhiêu tháng cho đến khi tôi được ăn cháo, ăn cơm. Cố đỡ tôi ngồi dậy, đứng lên. Cố tập cho tôi đi lại từng bước một, để cho tôi níu, tựa vào cánh tay gầy của Cố. Có ai có thể nghĩ rằng cháu nội của Ông Hoàng, xưa quen có người hầu kẻ hạ, nay hằng ngày chăm sóc cơm áo, thuốc men cho cô bé chắt yếu đuối!

 

Khi tôi đi vững, tôi hỏi Cố: “Bao giờ Cố cháu mình mới qua chơi hàng xóm”. Cố cười: “Con còn yếu chưa đi được đâu và Cố không còn biết đánh bài nữa”. Cố đã bỏ những thú tiêu khiển xưa như rũ xếp chiếc áo cũ và trở thành Ông Cố thương yêu của tôi! Cố nay là thầy, là bạn của tôi. Cố giúp tôi tập đọc, tập viết, dạy tôi đánh cờ tướng và kể cho tôi nghe nhiều chuyện cổ tích. Tôi thích nhất khi Cố giảng giải cho tôi hiểu lễ nghi của triều đình nhà Nguyễn mấy năm về trước như những kỳ thi và ngày phong tước cho những vị thủ khoa. Tuy tôi không hiểu mấy nhưng vẫn thấy hấp dẫn vì Cố còn tả những món ăn ngon, và áo quần đẹp. 

 

 Cố lại có thêm một việc quan trọng mới: tiếp khách hàng đến đặt đan áo len, giúp Mẹ và Dì phát triển công việc. Mẹ và hai Dì bấy giờ có nhiều lúc phải chạy xuôi ngược mua, đổi, bán len. Có len nhiều màu khác nhau Mẹ và Dì có thể đan những chiếc áo thật đẹp, kiểu cách, đặc biệt và kiếm nhiều tiền hơn.

 

Cố tiếp khách vui vẻ, khéo léo. Cố biết nhiều chuyện xưa để chia sẻ. Cố cũng hay nhẹ nhàng hỏi thăm gia đình lý lịch những ông bà, bạn mới của Mẹ và hai Dì. Đó là cách Cố thanh lọc, giúp Mẹ và hai Dì giữ được những khách hàng tử tế, dễ chịu. Cố có tính khôi hài, nói chuyện rất hóm hỉnh, nghe rất “hoàng phái”: “Ông bà ở An Cựu à? Vậy mua được ‘Gạo Vua’ không, lâu quá tôi không thấy, cũng nhớ”. Hay là: “Ồ, anh con nhà Nguyễn Khoa đấy à? Tốt quá. Trong họ không có ai ăn cắp ăn trộm gì”. Hơn cả nhân viên công an, Cố biết hết tông tích của nhiều gia đình ở Huế.

 

Thêm một thay đổi nữa. Đôi lúc Cố ngồi lẩm bẩm một mình nói  chuyện xa xôi: “Hừ! Ta sinh ra được những bốn con trai, nhưng rồi đây chết đi không có người chống gậy, thằng kẹt ngoài Bắc, thằng ở tù ở Côn Đảo, thằng mất tích lúc Nhật rút quân, thằng ẩn biệt trong Nam”. Theo phong tục cổ truyền, khi người cha mất con trai phải mặc áo tang, đội mũ rơm chống gậy đi thụt lùi trước quan tài, ý là để tiễn cha đi.  Dì Tâm an ủi Cố: “Ôn đừng lo. Cháu sẽ giả trai chống gậy cho Ôn”. Cố cười: “Ừ, cũng được đó”. Cố vẫn vui vẻ, tuy có lúc thẫn thờ, ăn uống ít và đi ngủ sớm hơn. Mẹ hơi lo: “Ôn già rồi”.

 

Nhiều tháng trôi qua; khi tôi bình phục hẳn thì đã gần Tết Trung Thu. Gia đình tôi rộn rịp chuẩn bị ăn Tết. Dì Tâm làm bánh; Dì Ý phơi hoa tường vi, hoa mộc và tim sen để ướp trà. Mẹ sửa soạn mâm cúng. Cố nhắc nhở thêm rằng phải có mãng cầu, đu đủ, thơm, cam, quýt trên bàn thờ để tỏ ý cầu xin gia đình được an lành. Anh Ái và anh Ứng làm lồng đèn. Hai anh làm cho tôi một cái lồng đèn ngôi sao với giấy bóng xanh đỏ thật đẹp. Anh Ứng bảo để mừng tôi lành bệnh. Tôi nao nức nghĩ đến ngày mai kia đi sẽ được đi rước đèn với hai anh.

 

Không hôm nào vui hơn Trung Thu năm ấy. Nhà nào cũng lấp lánh nhiều đèn đẹp nhưng tôi nghĩ đèn tôi đẹp nhất. Cả xóm nhộn nhịp tiếng cười nói, tiếng trẻ con hát hò. Cơm chiều quyện mùi thơm của nếp than, gạo lức, thịt nướng. Cố tỏ vẻ rất vui, ngồi uống nước trà nụ ướp tim sen. Cố gọi tôi đến để cho một chiếc đũa, đầu đũa cuốn ít mạch nha ngọt dịu nhất xứ. Tôi không thích gì hơn là mút đầu đũa ấy. Sao Cố biết ý và chiều chuộng tôi thế!

 

Vài ngày sau Trung Thu trời bắt đầu trở lạnh. Không để ý đến gió buốt, Cố bước ra cổng xem hàng xóm đã cất đèn treo trước ngõ chưa và lẩm bẩm: “Không biết ngoài Bắc vừa rồi có ăn Tết Trung Thu? Trời nay có lạnh lắm không? Bao giờ gia đình mình mới đoàn tụ nhỉ?” Mẹ biết Cố nhớ Ông Ngoại và lo cho Ba tôi. Mẹ pha trà mời Cố vào và rủ hai Dì đến ngồi nói chuyện cho Cố vui. Tôi được ngồi cạnh, được Dì Ý cho một miếng kẹo gừng để mân mê trong tay. Một chốc sau Cố bảo hơi mệt, ớn lạnh. Dì Tâm vội vã đun một nồi lá cho Cố xông. Tôi giành nhiệm vụ lau lưng cho Cố để ngửi mũi thơm của lá chanh, bó xả, dầu khuynh diệp. Tối hôm ấy tôi đỡ Cố vào giường; Cố nằm xuống thoải mái, an nhiên, thơm tho từ đầu đến chân. Cố đi ngủ sớm… và không bao giờ dậy nữa. Cố mất nhẹ nhàng trong giấc ngủ ba ngày sau Trung Thu. 

 

Tôi khóc không ngừng, ngồi một mình trong xó bếp cạnh lò lửa. Cả nhà bận lo tang lễ. Nào là phải may áo tang, kết mũ rơm, vót gậy cho Dì Tâm và Dì Ý giả trai đưa quan tài Cố đi; nào là phải mua vàng bạc, hương đèn; nào là phải báo tin cho bà con gần biết. Tuy không có tiền để làm một tang lễ long trọng, Mẹ muốn đủ lễ nghi đúng với vai vế của Cố trong gia tộc.

 

Chả ai để ý đến tôi trong xó bếp. Tôi vô ý để tay áo bén lửa cháy. Cánh tay tôi bỏng nặng. Anh Ứng cõng tôi chạy ù đến nhà thương. Tôi vẫn khóc suốt dọc đường, không biết vì cánh tay rát quá hay vì tôi biết Cố đã mất rồi.

 

Đám tang Cố tôi không được tham dự, không thể đi theo xe tang tiễn Cố đến nơi an nghỉ. Cánh tay tôi đã được băng bó cẩn thận nhưng vẫn có thể nhiễm trùng lở loét. Tôi ở trong nhà, đứng nép vào cánh cửa, thút thít, nhìn Dì Tâm và Dì Ý chống gậy trước quan tài, Mẹ theo sau với hàng xóm, bà con. Xe tang rời ngõ hẹp, tôi khóc oà.

 

Cố đi rồi. Cánh tôi tay rát quá. Chân tôi yếu nhũn. Tôi ngồi xuống, không còn biết gì nữa. 

 

*

 

Cố mất thế là đã hơn nửa thế kỷ. Tôi đã trưởng thành, đã trải qua cuộc di tản của gia đình đến Mỹ. Những ngày đầu trên xứ lạ, không nhà cửa, không nghề nghiệp, tôi nhớ lại cảnh sau chiến tranh lúc hồi cư về Huế và tôi thấm hiểu tiếng thở dài của Cố.  Thế giới quen thuộc không còn nữa, tương lai rồi sao đây, bây giờ làm được gì? Cố thở dài. Có lẽ Mẹ cũng đã thở dài. Và chính tôi cũng có lần thở dài trước hoàn cảnh khó khăn của việc định cư tại Mỹ. 

 

Nhưng có phải sau khi thở dài thì mình có thể xếp quá khứ vào ngăn nào đó trong ký ức, để đứng lên, níu tựa vào bản tính lạc quan, niềm ý hi vọng và tiềm năng phấn đấu, và để rồi bước vào thực tại đầy thử thách? Vậy là thở dài không phải là chấm dứt mà bắt đầu và tương lai là chuỗi ngày đầy ngạc nghiên; khó khăn, thất bại hay thành công tùy theo mình có thật chú tâm để vượt qua những trở ngại hay được người giúp đỡ, hay gặp nhiều may mắn.

 

Hiểu vậy, trước một hoàn cảnh khó khăn, tiếng thở dài của tôi nay rất ngắn để nhường cho một tiếng cười, hay câu nói hóm hỉnh. Thì ra tính lạc quan, bản chất khôi hài có tí “hoàng phái” Cố để lại cho tôi là một di sản quý báu nhất tôi thừa hưởng được.

 

-- Hạt Tiêu

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.
Nhận được tin buồn nhà thơ Phan Xuân Sinh sau một cơn bạo bệnh, nhập viện vì bệnh tim mạch, hôn mê sau 10 ngày vô phương cứu chữa đã qua đời tại Texas ngày 28/2/2024. Thọ 76 tuổi...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.