[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang được xuất bản năm 2004. Qúy độc giả muốn mua sách, xin vui lòng liên lạc ledinhho@hotmail.com]
Hỏi (Bà Trần Thị T.T.): Chồng tôi bị bắt về tội sở hữu và buôn bán cần sa. Hiện đang bị giam giữ và chờ ra hầu tòa. Tôi vào thăm thì được chồng tôi cho biết là cách đây hơn 4 tuần lễ, trên đường đi làm về chồng tôi đã được một người đàn bà cho biết là bà ta có 2 kg cần sa cần bán với giá rẽ. Sau khi thương lượng bà ta đồng ý bán với giá $600 đô. Thế là chồng tôi đã rút tiền trong thẻ tín dụng và mua 2 kg cần sa đó.
Sau khi mua xong, chồng tôi vội vàng ra chỗ đậu xe để về nhà, không ngờ cảnh sát đã đến hỏi giấy tờ và yêu cầu xem túi xách. Sau khi lục xét và phát hiện số lượng cần sa này, cảnh sát đã đưa chồng tôi về đồn. Tại đồn cảnh sát, chồng tôi bị hỏi cung và bị cáo buộc tội trạng sở hữu và buôn bán cần sa. Sáng hôm sau, chồng tôi bị đưa ra tòa. Luật sư của chính phủ có xin tòa cho chồng tôi được tại ngoại nhưng đã bị tòa từ chối.
Chồng tôi là một người thỉnh thoảng xử dụng cần sa. Mặc dầu không nghiện ngập, nhưng từ ngày bảo lãnh tôi sang Úc, tôi cũng đã nhiều lần chứng kiến việc chồng tôi hút cần sa, ngay cả khi có mặt của tôi và các con.
Chồng tôi cho biết là trước khi bảo lãnh tôi sang Úc, anh ta đã quyết định bỏ hút cần sa. Ảnh cho biết là hồi đó phải đến cai nghiện tại trung tâm ở vùng Liverpool, vì sợ rằng nếu khi về Việt Nam gia đình của tôi biết được rằng ảnh là một người nghiện ngập thì chắc chắn rằng việc hôn nhân sẽ không thành. Tôi được chồng tôi cho biết là hiện ảnh chỉ nhận tội sở hữu ma túy. Riêng tội buôn bán ma túy thì chồng tôi vẫn không chịu nhận.
Tuy chồng tôi là người đã từng nghiện ngập cần sa, nhưng chưa lần nào bị bắt về tội sở hữu ma túy hoặc các tội trạng khác. Đây là lần đầu tiên chồng tôi bị bắt và bị cáo buộc các tội trạng này.
Chúng tôi hiện có 2 con nhỏ, 3 và 5 tuổi. Tôi và các cháu chỉ trông cậy vào đồng lương của chồng tôi để sinh sống.
Xin LS cho biết là tội trạng mà chồng tôi bị cáo buộc có nặng không" Nếu bị tòa buộc tội thì chồng tôi phải ở tù bao lâu.
*
Trả lời: Điều 29 của “DDạo Luật về Sự Lạm Dụng và Buôn Bán Ma Túy” (The Drug Misuse and Trafficking Act) quy định rằng: “Người sở hữu một lượng ma túy nhiều hơn lượng ma túy dùng để buôn bán sẽ bị xem là sở hữu ma túy để cung cấp, ngọai trừ (a) người đó chứng minh được rằng đương sự sở hữu ma túy không phải dùng để cung cấp. . .” (A person who has in his or her possession an amount of a prohibited drug which is not less than the trafficable quantity of the prohibited drug shall be deemed to have the prohibited drug in his or her possession for supply, unless (a) the person proves that he or she had the prohibited drug in his or her possession otherwise than for supply. . .).
Điều 25(1) “DDạo Luật về sự Lạm Dụng và Buôn Bán Ma Túy” (The Drugs Misuse & Trafficking Act 1985) quy định rằng: “Người buôn bán hoặc cố ý tham dự vào việc buôn bán ma túy sẽ bị buộc về tội trạng này” (A person who supplies, or who knowingly takes part in the supply of, a prohibited drug is guilty of an offence).
Trong vụ Livas v Regina [2006] NSWCCA 54, khi cảnh sát chìm đang theo dõi và điều tra việc buôn bán ma túy của nhóm Scott, thì vào ngày 12.9.2003, một trong những người giao ma túy của nhóm này đã từ Sydney trở về Adelaide mang theo một số lượng cần sa.
“DDương sự đã gặp bị cáo và đưa cho bị cáo 2.26 Kg cần sa để nhận một số tiền mặt không tiết lộ là bao nhiêu” (He met with the accused and supplied him with 2.26 kg of cannabis in exchange for an undisclosed amount of cash).
Bằng chứng trước tòa cho thấy rằng bị cáo là người thường xử dụng cần sa, và đồng ý là đã trả $500 cho số lượng cần sa đó.
Bị cáo bị cáo buộc và nhận tội sở hữu và “tội bị xem như là buôn bán ma túy” (deemed supply of prohibited drug).
Tòa đã tuyên án bị cáo bản án 6 tháng tù ở. Bị cáo bèn kháng án và được tại ngoại trong lúc chờ quyết định của Tòa Kháng Án Hình Sự. Bị cáo đưa ra 5 lý do để kháng án: (1) Bản án quá nặng; (2) Vị thẩm phán xử án đã không chịu lưu ý đến các biện pháp trừng phạt khác, khác hơn là đưa ra bản án tù ở; (3) Vị thẩm phán tọa xử đã sai lầm khi đặt vấn đề là liệu bị cáo có thuộc nhóm Scott hay không; (4) Vị thẩm phán tọa xử đã sai lầm khi so sánh sự phạm tội này với những người phạm tội thuộc nhóm Scott; (5) Vị thẩm phán tọa xử đã sai lầm khi không thể quyết định về việc là liệu bị cáo sẽ tái phạm, hoặc có thể sẽ tái phạm hay không"
Tòa kháng án cho rằng 2.26 kg cần sa chỉ là 1/10 của số lượng cần sa luật định về tội buôn bán với số lượng thương mãi.
Về 5 lý do mà bị cáo đã đưa ra để kháng án, tòa cho rằng: (1) bản án không có gì là quá nặng; (2) về việc tòa cần phải áp dụng những biện pháp trừng phạt khác, khác hơn là buộc bị cáo phải ngồi tù thì Tòa cho rằng chỉ có những trường hợp đặc biệt tòa mới không buộc các người phạm tội buôn bán ma túy khỏi ngồi tù. Tuy nhiên, Tòa cho rằng bằng chứng vẫn không rõ ràng để có thể kết buộc bị cáo là người buôn bán ma túy.
Tòa cho rằng: “Các sự kiện dùng để chống lại bị cáo vào lúc xét xử phải được chứng minh là không còn có sự nghi ngờ nào nữa. Còn các sự kiện trưng dẫn bởi bị cáo, được dùng vì quyền lợi của bị cáo, chỉ cần được chứng minh dựa vào sự cân nhắc về các sự kiện có thể xảy ra” (Facts used against an applicant at a sentencing hearing must be proven beyond a reasonable doubt. And facts proven proven by a defendant, to be for the benefit of that defendant, need only be proven on the balance of probability).
(3) Cho rằng bị cáo thuộc nhóm Scott, điều này không thể chấp nhận được “ngoại trừ có bằng chứng về sự kiện này mà không còn gì để nghi ngờ được nữa” (unless there were proof of the fact beyond reasonable doubt).
(4) không thể so sánh sự phạm tội của bị cáo với Mr Gosling, người thuộc nhóm Scott được, vì Gosling đã thủ đắc số lượng ma túy gấp nhiều lần hơn; (5) Luật pháp không đòi hỏi vị chánh án phải quyết định là bị cáo có thể sẽ tái phạm hay không.
Cuối cùng, Tòa Kháng án đã cho bị cáo 6 tháng tù treo và đưa ra phán quyết rằng bị cáo được phóng thích.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn bà có thể thấy được rằng các tội trạng mà chồng của bà bị cáo buộc là những tội trạng hình sự khá nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu công tố viện đồng ý để chồng bà được xét xử tại tòa án địa phương, về “khinh tội, hoặc tội tiểu hình” (summary offence) theo sự quy định của điều 33(3) thuộc “DDạo Luật về Sự Lạm Dụng và Buôn Bán Ma Túy” (The Drug Misuse and Trafficking Act) thì hình phạt tối đa dành cho các tội trạng mà bà đã nêu lên trong thư là 2 năm tù ơ, hoặc 50 đơn vị tiền phạt [tương đương với $5,500], hoặc cả 2 hình phạt.
Hy vọng rằng luật sư của chồng bà có thể thương lượng với công tố viện để đạt đến sự thỏa thuận này.
Nếu bà còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.