Hôm nay,  

Kinh Dị: Bóng Ma Nửa Đêm

29/01/200700:00:00(Xem: 2905)

Kinh dị: Bóng Ma Nửa Đêm 

(Tiếp theo và hết)

Bảy An xách súng xô cửa bước ra ngoài, chiếc đèn pin trong tay lóe lên một vệt sáng dài xuyên qua màn đêm, gã đưa mắt tìm chú Hai Tốn. Lạ chưa, đã dặn cầm đèn đứng chờ mà ông già biến đi đâu nhanh vậy kìa. Bảy An chặc lưỡi. Mấy ông già nhậu cho lắm, chắc đã chui vào bụi ngủ rồi. Một cơn gió từ cánh đồng trống thổi vào lùa qua những tàng lá tạo nên thành những âm thanh vi vu kỳ dị. Bảy An chột dạ tựa người vào cái cột bên hiên nhà, ngại ngần nhìn khoảng không gian mờ mịt trước mặt mà dường như kéo dài đến bất tận. Đêm khuya sương xuống lạnh, Bảy kéo cao cổ áo, tay ôm chặt cây súng vào ngực, gã cố quét mấy đường sáng vào những bụi rậm bên hiên nhà gọi lớn:
-Chú Hai ơi... chú Hai...
Ông già đã lẩn đi đâu mất, nên chẳng có ai trả lời Bảy cả, chỉ có tiếng gió hú ù ù ngoài cánh đồng. Bảy An tự hỏi liệu có nên tiếp tục đi, hay là trở vào nhà đánh một giấc. Đã lỡ nói cứng với các tay nhậu, chẳng lẽ không đi thì bể mặt công an quá. Mấy lít rượu đang chạy rần rật trong từng mạch máu, trong đầu Bảy An hiện ra vô số những cái vòng tròn, cái này xô vào cái kia, giống như khi người ta ném những hòn sỏi xuống mặt ao phẳng lặng. Đôi mắt của Bảy An nặng chình chịch như đeo đá, gã chỉ muốn ngã lưng lên chiếc giường trải chiếu hoa êm ái, tưởng tượng lúc ôm lấy tấm thân tròn trịa ấm áp, nồng thơm hương hoa đồng nội từ mái tóc của vợ, quấn quít vầy cuộc ái ân. Rồi cái thể xác đã no nê khoái lạc của gã sẽ thiếp đi trong một giấc ngủ đậm sâu đầy mộng đẹp.
Bảy An chặc lưỡi định xoay lưng bước trở vào, thì đột nhiên trên con đường làng thấp thoáng ánh vàng le lói, chập chờn một cái bóng người đang cầm chiếc đèn bão đi về hướng vàm sông. Chắc là chú Hai Tốn rồi, chứ còn có ai mà dám đi thơ thẩn giữa đêm khuya như thế này. Bảy An mừng rỡ gọi theo: "Chú Hai, chờ tui với..."
Đang bước nhẹ trên lớp đất khô xám của con đường làng, cái bóng đen dừng lại đứng lặng thinh bên gốc một cây mù u rậm lá. Bảy An ôm súng chạy đến vừa thở vừa phàn nàn: "Tui đã dặn chú chờ ngoài cửa, chú đi đâu vậy""
Cái bóng đen chậm rãi đưa chiếc đèn bão lên cao, khuôn mặt đen nhẻm của chú Hai mờ ảo hiện ra trong màn tối, Bảy An lấy tay che mắt càu nhàu:
-Chói quá, chú hạ đèn xuống cái coi!
Vẫn lặng lẽ không nói năng gì, ông già từ từ quay lưng, khoát tay ra dấu bảo gã trai trẻ đi theo. Bảy An bực mình lắm rồi. Người ra lệnh phải là hắn, tiến lên hay lùi lại là do hắn, chứ không phải là ông già. Bảy xoải bước đi nhanh vượt lên hích vai ông chú, làm ông già lảo đảo muốn trượt chân xuống mặt ruộng:
-Chú đi theo tui.
Bảy An vác súng lên vai hăng hái đi trước. Được một lúc thấy thấm lạnh, Bảy An chậm bước chờ chú Hai:
-Chú còn thuốc không, cho vấn một điếu coi"
Ông già nhìn gã công an bằng đôi mắt lạnh lẽo, đôi môi thâm tím mím chặt trong một trạng thái bất mãn. Cái thằng chỉ chuyên bòn rút thiên hạ. Nó có một bao thuốc lá còn nguyên trong túi ấy chứ. Nghĩ là nghĩ vậy, nhưng chú Hai vẫn móc trong túi áo gói thuốc rê và giấy quyến đưa cho Bảy. Bảy ngồi xuống một mô đất bên đường ra lệnh:
-Mình nghỉ hút thuốc chút cho ấm chú Hai.
Ông già lắc đầu khoát tay, ngụ ý chú không hút và chú sẽ đứng chờ. Bảy An vấn một điếu thuốc, hắn mở nắp chiếc đèn bão chú Hai đang cầm trong tay kê điếu thuốc vào mồi, rít vào một hơi dài. Chợt gã ho sù sụ, ôm ngực sặc sụa nhổ ra mấy bãi nước miếng, hắn đứng dậy la lối om sòm: "Thuốc gì hôi như cứt trâu vậy chú, đắng thấy bà, thuốc vậy mà chú hút được sao""
Chú Hai rùn vai không nói gì, ông quay lưng chậm rãi bước. Bảy An bực bội bước theo, lần tay tìm trong túi gói thuốc lá đen móc một điếu và gọi ông chú: "Chú Hai, chờ tui mồi thuốc đã..."
Giả vờ không nghe thấy, ông chú lầm lũi bước nhanh. Bảy An đưa hai tay lên trời chịu thua ông già cứng đầu, hắn móc chiếc hộp quẹt xăng bật lửa. Xăng đã khô từ lâu, gã trai trẻ bật đến đau rát da tay mà chẳng nặn ra được tí lửa nào, hắn chửi đổng:
-Mẹ nó! Ê, chú Hai, chú chờ tui với!
Giữa đêm đen dầy đặc, Bảy An chỉ còn trông thấy ánh lửa vàng nhạt ảm đạm trong chiếc đèn bão nhấp nhô theo bước chân của ông già, như một con ma trơi đang trồi lên từ dưới đáy mộ sâu. Một con cú đậu trên nhánh cây bên đường bỗng rúc lên một tràng dài kinh dị. Bảy An rùng mình xoay người muốn quay trở lại con đường cũ, hy vọng sẽ nhìn thấy ánh đèn xóm làng, nhưng hắn bỗng kinh hãi nhận ra rằng, hắn đang đứng giữa một nơi chốn xa lạ, bị bao bọc bởi một khoảng tối đen như mực, đến nỗi đưa bàn tay lên trước mặt cũng không thể thấy được. Một nỗi sợ hãi từ từ dâng lên trong lòng gã công an, hắn lên cò súng lắc cắc để tự trấn tĩnh. Bảy đưa mắt nhìn theo cái ánh đèn bão của chú Hai, giờ chỉ còn là một cái chấm than nhỏ. Bảy chiếu đèn pin theo hướng ánh đèn, để kinh khủng nhận ra rằng, chiếc đèn đã tắt ngóm từ lúc nào. Bảy An đứng chết lặng giữa bóng tối. Bất giác hắn co đôi chân phóng theo, vừa chạy vừa gào trong tiếng gió rít:
-Chú Hai... Chú Hai...
Từ phía sau Bảy, bỗng nhiên nổi lên những tiếng bước chân thình thịch đuổi theo. Tóc gáy dựng đứng, Bảy An đột ngột đảo người lại chĩa súng quát to:
-Thằng nào, muốn chết hả"
Chẳng có ma nào trả lời Bảy hết. Chẳng thấy bóng một người nào cả. Nhưng những tiếng chân chạy vừa rồi là của ai. Chẳng lẽ là của..., Bảy An rên lên trong lòng, trời ơi... ma. Gã trai trẻ đưa tay lên vỗ đầu, hy vọng rằng hắn chỉ bị hoa mắt và đang đắm chìm trong một ảo tượng không có thật bởi chất rượu quái ác. Gã công an xoay lưng tìm kiếm ánh đèn của chú Hai Tốn. Hoàn toàn mất phương hướng, Bảy An chỉ còn bám vào cái đốm lửa chập chờn ở đàng xa kia. Vừa đi Bảy An vừa nguyền rủa ông già đã đưa hắn vào một tình thế hoang mang như thế này. Đi được một lúc, Bảy An có cảm giác, dường như có một hay nhiều người đang... nhè nhẹ bước theo sau hắn, chắc hẳn là ngay sát bên lưng, đến nỗi Bảy có thể nhận biết được hơi thở lạnh lẽo của những con người đó nhè nhẹ phả lên gáy hắn. Máu đã sủi bọt sôi sục trong người vì sợ, Bảy An quay lại gào to trong một nỗi tê điếng điên cuồng:
-Thằng nào" Tao bắn... chết bỏ...
Bảy An hy vọng vẫn là ảo giác đã trêu cợt, khi gã trông thấy những cái bóng trắng cao nghều nghệu ken sát vai nhau đến hơn mươi người, phiêu phưởng như sương như khói, lặng lẽ đứng trên con đường làng trừng trừng nhìn. Bảy An lùi lại, đôi hàm răng đánh cầm cập, hắn chỉa mũi súng vào những cái bóng trắng lắp bắp:
-Tao... tao... bắn...
Bảy lùi đến đâu, những con người mặc áo trắng tiến theo, tà áo choàng dài lướt là đà trên ngọn cỏ. Đến một lúc, Bảy An đã có thể trông thấy những đôi mắt tím thẫm từ dưới cái khăn choàng đầu, lóe lên những tia xanh biếc chằm chằm như muốn thu hồn hắn. Cái vòng vây những con người áo trắng càng lúc càng thu hẹp, để Bảy kinh hoàng nhận ra, trời ơi, dưới những chiếc áo sương khói ấy, thấp thoáng những bộ xương người. Bảy An quẳng súng quay lưng bỏ chạy về phía ánh đèn còn lung linh trong đám cây rậm kêu cứu:
-Bớ người ta... ma... ma...
Bảy An nghe hàng loạt tiếng chân thình thịch đuổi theo, càng lúc càng gần, dường đã bén gót. Khi người ta trong một trạng thái khủng khiếp tột độ, trước một nỗi nguy nan hay một cái chết chắc chắn, thì cơ thể tự tìm cách để được sinh tồn, bằng cách tiết ra những kích thích tố sinh học biến một con người bình thường trở nên thành phi thường. Người ta có thể nhảy qua một cái hàng rào kẽm gai chằng chịt cao đến hai thước chỉ trong một phần mười giây, phóng qua một con mương rộng bốn, năm mét như một lực sĩ nhảy xa vô địch, hay chạy một trăm thước chỉ có mười giây. Bảy An đang ở trong trạng thái mà người ta gọi là bị ma đuổi, nên đôi chân gã xoáy tròn như chiếc bánh xe đạp đã xoay hết tốc lực. Tiếng chân càng đuổi sát, thì Bảy càng phóng, đôi chân sải dài vùn vụt, mái tóc cứng như rễ tre của hắn xỏa tung trong gió như cái bờm ngựa. Trong bóng đêm dầy đặc, đột nhiên ánh sáng từ chiếc đèn bão của chú Hai Tốn lóe lên rất gần. Bảy An phóng đến gọi:
-Chú Hai... cứu tui với... ma rượt!
Gã công an trông thấy ông già lù lù tiến nhanh đến, hắn cuống quít ôm lấy ông chú thở hổn hển:
-Chú Hai... đi đâu...
Sự hiện diện của chú Hai Tốn trong tình thế ghê rợn như thế này đối với Bảy chẳng khác nào người sắp chết đuối nắm được chiếc phao cứu tử. Nhưng Bảy An đã buông ông chú ra như bị điện giật, gã lùi lại lắp bắp trong cơn thảng thốt:
-Úy, sao người chú Hai lạnh dữ vậy"
Ông già lặng thinh đưa chiếc đèn bão lên ngang tầm mắt, Bảy An cố nhướng mắt nhìn, chợt hắn rú lên khủng khiếp:
-Á... trời...
Trước mặt Bảy, nào phải đâu là chú Hai Tốn, người từng nhiều lần cụng ly chén tao chén mày với hắn, mà là một con người dị hình trong chiếc áo choàng đen nồng nặc mùi thối rửa của xác chết, với khuôn mặt lở lói nhung nhúc hàng trăm nghìn con dòi chui ra chui vào trong hốc mắt mũi, chẳng khác nào một người chết nằm dưới đáy mộ biến thành quỷ nhập tràng bật dậy từ chiếc quan tài đi tìm những con người sống để hút máu. Từ đôi môi dầy đã mất hết một nửa thịt, một chiếc lưỡi đỏ lòm, dài thậm thượt như một con rắn thè ra liếm lấy cái khóe miệng của gã trai trẻ, như muốn uống cạn nguồn sinh lực của hắn. Bảy gào to trong một chuỗi âm thanh vô nghĩa, ằng ặc như đang bị hai bàn tay vô hình thít chặt lấy. Cái đầu lâu cười khành khạch, hai cánh tay xương xẩu lam nham những mảnh thịt vụn, mà bọn dòi bọ còn chưa rút rỉa hết, giang rộng ra ôm lấy Bảy An siết chặc vào lòng, Bảy òa lên một tiếng hãi hùng ngã bật ngửa về phía sau ngất lịm...

*

Bình mở chiếc ba lô lấy ra chiếc xẻng gấp kiểu quân đội Mỹ mà chàng đã mua ở chợ trời Sài Gòn. Chiếc xẻng còn mới toanh. Bọn con buôn có lắm tài thật, thượng vàng hạ cám cái gì họ cũng có thể tìm được. Bình rọi đèn pin khắp cái nền dưới cây thập giá. Cha Phêrô Phước đã ân cần dặn dò Bình, rằng chàng phải đào ở ngay vị trí cái bục mà vị linh mục thường đứng thuyết giảng. Công việc thật vất vả, vì Bình phải bới móc đống gạch đá. Những hòn gạch bể nát, sắc cạnh đã cào rách những ngón tay Bình, nhưng chàng vẫn bò lê lết trên sàn đất quyết tìm cho được cái nền bục giảng. Đêm lạnh mà mồ hôi đã rịn đẫm ướt trán của Bình. Đã nửa khuya rồi mà Bình vẫn chưa tìm được vị trí chính xác của cái bục, mặc dù Cha Phước bảo chàng kẻ từ chân thập giá một góc vuông ra đến hai mét rưỡi và hãy đào xuống chỗ đó. Nhắm đi nhắm lại mãi, đo đạc bằng mắt và tay, cuối cùng Bình quyết định xắn xẻng xuống chỗ mà chàng vừa bới dọn. Bình đưa cao cái xẻng giáng xuống nền đất, thì bỗng nhiên mắt chàng chạm phải đôi bàn chân trắng ngần đứng sát gần bên. Bình giật mình ngã người về phía sau, chiếc đèn pin lăn long lóc vào một góc, nhưng ánh sáng nhạt của nó cũng đủ để cho chàng trai nhận ra cái bóng trắng ấy chính là thằng bé mặc áo lễ.


Kinh ngạc pha lẫn với sợ hãi, Bình cứng đờ người như hóa đá, hai cánh tay chàng chống trên nền xi măng chịu đựng sức nặng của thân thể trong tư thế ngồi nghiêng. Thằng bé đứng thật gần, nên Bình có thể trông thấy được khuôn mặt trắng bệch nhưng thật thánh thiện của nó, chiếc áo lễ hừng lên một màu sáng trắng như pha lê, khiến Bình có cái cảm nghĩ rằng thằng nhỏ là một thiên thần ở trên trời cao, chứ không phải là một cái hồn ma vất vưởng trong ngôi giáo đường. Thật lạ lùng, thằng bé nhìn xuống chỗ cái nền đất, rồi lại nhìn Bình nhè nhẹ lắc đầu. Nó lại nhìn xuống hai bàn chân trắng muốt của nó, gật đầu với chàng. Bình đã hiểu tất cả. Thằng bé nó muốn chàng đào ở cái vị trí mà nó đang đứng. Bình nhoài người với tay cầm lấy chiếc xẻng, khi chàng xoay lại để bắt đầu công việc thì cái bóng của thằng bé đã biến mất trong cõi đêm đen. Bình đặt chiếc đèn pin vào một độ nghiêng để ánh sáng chiếu thẳng vào cái hõm đất. Bình tin là thằng bé nó thực tâm giúp chàng. Khi một hồn ma, hay một thiên thần, đã mặc khải điều huyền nhiệm, thì chắc chắn điều đó phải là chân lý. Trong một nỗi phấn khích mà không ngôn từ nào có thể diễn tả được, Bình hùng hục đào xới, một sức mạnh siêu nhiên cuồn cuộn dậy lên trong huyết quản chàng như những giòng thác từ trên ghềnh đá cao đổ xuống một cái hồ nước rộng mênh mông. Được một lúc, Bình bất ngờ ngước nhìn lên, sửng sốt nhận ra thằng bé đang đứng dưới gác chuông, tay nó nắm một sợi dây thừng, hẳn là dây chuông rồi, không biết nó định làm gì. Kéo chuông chăng" Nhưng để làm gì chứ. Phía sau thằng bé, trong cõi ánh sáng mờ mịt từ chiếc đèn pin hắt vào, thấp thoáng nhiều cái bóng đen đứng lặng thinh, mà Bình cảm nhận được rằng họ đang theo dõi công việc của chàng. Dẫu đã có cây thánh giá trên ngực, nhưng Bình vẫn không thể không rờn rợn, da dẻ ớn lạnh, bởi chàng đang bị bao bọc bởi những hồn ma.
Bình cúi gằm mặt xuống gởi nỗi sợ hãi của chàng vào những nhát xẻng, chợt chiếc xẻng va chạm vào một vật cứng, không thể nhấn sâu xuống được nữa. Trái tim trong lồng ngực chàng đánh thình thình. Có lẽ nào Bình đã chạm trúng cái vật ấy, chàng vội lấy chiếc đèn pin rọi vào cái hố đất. Dưới lòng đất có một chiếc hộp kim loại chưa bị rỉ sét, nó phản chiếu ánh đèn ngược trở lên buộc Bình phải lấy tay che mắt, rồi chàng nhoài người xuống bới đất đem cái hộp lên. Bất giác Bình quay lại nhìn thằng bé, thì trời ơi, chàng có trông lầm không, nó mĩm cười gật đầu, đôi mắt chan chứa một thứ ánh sáng dịu dàng và thánh thiện chăm chăm hướng về chiếc hộp. Cái nắp không thít chặc lấy thân hộp lắm, nhưng đôi tay run rẫy của Bình cứ mò mẫm mãi, sự xúc động đã làm chàng mụ mị đi. Cuối cùng thì Bình cũng mở được, chàng hồi hộp nhìn vào. Một cái gói rất lớn bọc trong nhiều lần nhựa nylon nổi cộm lên thành một khối chữ nhật. Bình kéo cái gói nhựa ra khỏi chiếc hộp, thì cùng lúc ấy, tiếng chuông trên nóc giáo đường đã rộn rã một tràng âm thanh chào mừng. Bình thảng thốt nhìn lên, để trông thấy thằng bé đang đánh đòng đưa với sợi dây chuông, và trời ơi, những cái bóng ma trong những chiếc áo choàng đen đang kính cẩn quỳ hướng về phía chàng, những bàn tay chấp lại trong tư thế kính cẩn. Bình ngẩn ngơ nhìn xuống cái gói nhựa, khuỵu chân xuống đối mặt với chiếc thánh giá gãy trên tường, lần tháo những mảnh nhựa, chàng rú lên:
-Lạy Chúa tôi... quyển Kinh Thánh của Đức Cha Alexandre de Rhodes!
Tiếng chuông trên nóc giáo đường càng rộn rã hơn, mà Bình nghe văng vẳng trong ấy còn có tiếng hát ngợi ca thượng đế của những thiên thần. Bình ôm cuốn Thánh Kinh vào lòng gục đầu thỗn thức trước thánh giá của Chúa. Ôi, ta đã tìm lại được cho dân tộc Việt Nam một báu vật thiêng liêng với bốn trăm năm lịch sử. Cuốn kinh này là một trong hàng ngàn cuốn kinh mà Đức Cha De Rhodes đã diễn dịch sang tiếng Việt từ quyển Kinh Thánh La Tinh, ấn loát ở La Mã và đem vào Việt Nam để lưu hành trong hàng giáo sĩ và tín đồ.
Bình rưng rưng ôm cuốn kinh vào lòng, chàng không có thể tượng tượng được, có một ngày, một tín đồ trẻ, vô danh và tầm thường như chàng lại có được cái vinh dự sờ tay vào món báu vật này. Có lẽ nào, cậu bé phụ lễ là người duy nhất bên cạnh Cha Phước biết rõ ngọn nguồn và nơi chôn giấu quyển sách, nên nó còn nấn ná chờ đợi cho đến khi nào có người trở về đem cái báu vật ấy trở ra trước ánh sáng. Nếu tin rằng có một đấng toàn năng sáng tạo nên vũ trụ và con người, ngài luôn dõi nhìn xuống để ban rưới cho thế gian nhiều ân sủng và phép nhiệm mầu, thì chuyện Bình được cha Phêrô Phước giao cho trách nhiệm trở về Việt Nam tìm lại cuốn Kinh Thánh là một phép diệu huyền của thượng đế. Cha mẹ là tín đồ Công giáo, nên từ lúc chào đời, Bình cũng đã được rửa tội để trở thành một người Công giáo. Cậu bé con Bình ở tuổi đến trường, biết viết biết đọc, cậu không đọc sách nhi đồng, truyện tranh, không mê mãi với những phim truyện hoạt họa trên truyên hình như bọn bạn, mà cậu say mê vùi đầu vào cuốn Cựu Ước. Những câu chuyện từ thời tạo thiên lập địa, chuyện ông bà cụ tổ Adam và Eve, chuyện loài người, lịch sử và chiến tranh trong Kinh Thánh đã thu hút nhiều thì giờ nô đùa ngoài đường phố của Bình, mà một cậu bé bình thường nên có. Dẫu thế, Bình cũng không quên cậu là một người con trong gia đình, cậu nhỏ chăm lo học hành, đỗ đạt nên người cho cha mẹ và anh chị em trong gia đình được vui và hãnh diện về chàng.
Nhiều lần cha mẹ Bình thúc giục chàng cưới vợ, bằng cách giới thiệu những cô gái nết na xinh đẹp nhất trong họ đạo, nhưng Bình cứ lần lữa thoái thác mãi. Bởi chàng nghỉ, rồi cũng đến một lúc nào đó, duyên nợ run rủi, Bình sẽ gặp được mảnh xương sườn của chàng. Bình rất thích thú câu chuyện Nguyệt Hạ Lão Nhân đời nhà Đường bên Tàu. Chuyện kể ông lão dưới trăng đã xe duyên cho chàng thư sinh Vi Cố với một cô gái trẻ con một bà ăn xin. Bình tin chắc rằng ông lão dưới trăng cũng đã buộc hai mảnh tre có tên chàng và một cô gái nào đó sẵn rồi, khi tiếng chuông thời điểm đã vang vọng thì chàng cùng nàng tương hội, và sẽ đưa nhau vào vườn địa đàng. Nhưng bây giờ, trong lúc còn được thong dong tự tại thì Bình cứ mỗi năm nghỉ hè, chàng bay qua thư viện Vatican vùi đầu vào những thư tịch cổ để nghiên cứu về lịch sử và con người Ki Tô giáo. Chính là ở đấy, Bình đã gặp một ông già đạo mạo, mặt mũi hồng hào phương phi là Đức Cha Phêrô Phước. Ngay trong lần tao ngộ đầu tiên, Cha Phêorô đã tin cẩn kể lại câu chuyện cuốn Thánh Kinh ẩn giấu trong ngôi giáo đường bên giòng sông Hậu. Là một chàng thanh niên thông minh, Bình đủ hiểu ngầm rằng Cha Phêrô muốn chàng giúp cha tìm lại cuốn kinh ấy. Với trái tim nồng nàn một đức tin cứng như đá tảng, Bình tình nguyện xin về Việt Nam tìm cuốn Kinh Thánh đem trở ra ngoại quốc trao cho cố chủ. Cha Phêrô đặt bàn tay từ ái lên bờ vai đầy của chàng thanh niên, tuy đã là một nhà tu giác ngộ, không còn chịu sự chi phối của những cảm xúc trần thế, nhưng đôi mắt của ngài vẫn hoe đỏ:
-Con hãy tin lời cha nói có đúng không. Ngày nào mà Thánh Kinh Thiên Chúa của dân tộc Việt Nam đã ra khỏi nơi tối tăm, đuợc trang trọng thờ phượng dưới ánh sáng của mặt trời, thì ngày đó dân tộc Việt Nam sẽ có được ánh sáng đời đời. Cuốn Thánh Kinh đó không phải là của cha mà là của chung dân tộc chúng ta. Gánh nặng ấy con có mang vác được không"
Bình kính cẩn hôn tay ông lão tu sĩ:
-Thưa Cha, con xin hiến thân, hiến linh hồn con cho gánh nặng này. Đó chỉ là một phần nghìn của những gì mà Chúa đã mang vác đến chỗ người ta đóng đinh ngài.
Là một con người tháo vát, năng động, chỉ cần nhẩn nha dạo chơi ngoài chợ Bến Thành có nửa ngày, Bình đã tìm được người làm cho cho chàng một cái giấy chứng nhận của thành phố cho phép kỹ sư Nguyễn Thanh Bình về khảo sát sửa chữa Nhà Thờ Vàm Cái Muồng, với con mộc đỏ chói và chữ ký của chính quyền. Thay vì mang vác gánh nặng của nước non, Bình nhẹ nhàng đáp tàu đò đổ bộ lên một vùng đất hoàn toàn xa lạ, có cái tên thăm thẳm và buồn hiu hắt là Vàm Cái Muồng bên bờ sông Hậu.
Từ trong xóm thôn, đã có tiếng gà gáy lần thứ nhất, báo hiệu sắp qua một ngày mới. Bình gói cuốn sách trở lại trong mấy lần giấy dầu, cho vào hộp, cẩn thận nhét vào đáy chiếc ba lô. Công việc đã hoàn tất, Bình hân hoan thơ thới xúc đất thảy xuống chiếc hố, khuân gạch đá bít kín hết mọi dấu vết, để khi bình minh lên, bọn trẻ chăn trâu và dân làng có kéo đến, thì họ cũng không thể nhận ra một dấu tích khả nghi nào. Bình vươn vai nhìn về hướng rặng dừa nước. Một màu hồng dìu dịu đã ửng le lói sau tàng lá. Lũ gà ấm chân lại thi nhau gáy rộn rã đón chào bình minh lên. Từ tận mãi xa đâu đó trên giòng sông Hậu, Bình đã nghe thoáng tiếng đò máy rì rì êm ả vẳng tới theo từng cơn gió nhẹ. Xốc chiếc ba lô lên vai, Bình bồi hồi quay nhìn lần cuối ngôi giáo đường, để thu vào ký ức chàng một kỷ niệm huyền nhiệm mà chắc chắn sẽ luôn theo cùng với chàng đến suốt cuộc đời. Cậu bé phụ lễ mặc áo trắng và những bóng ma áo đen đứng bên thềm nhà thờ lặng lẽ trông theo mỗi bước chân xa dần của chàng trai thành phố. Bình bùi ngùi bước thụt lùi từng bước ra khỏi sân giáo đường, bất giác chàng đưa tay lên vẫy chào giã biệt. Thằng bé áo trắng chạy đến mấy bước, nó cũng đưa tay vẫy lại Bình. Vẫn còn rất quyến luyến với người trần thế, thằng bé muốn tiến thêm nữa, nhưng một cái bóng đen đã ôm lấy đôi vai nhỏ của nó giữ chặt.
Cuộc tương phùng nào rồi cũng phải có lúc chia phôi, Bình cắn răng quay đi, hối hả về phía bến sông. Nhiệm vụ chỉ mới hoàn thành có một nửa, bằng mọi giá Bình phải đưa được quyển Kinh Thánh ra khỏi Việt Nam. Nhưng được mấy bước, Bình xoay người nhìn để ngẩn ngơ nhận ra rằng, chẳng còn một bóng dáng một hồn ma nào bên ngôi nhà thờ. Họ đã biến mất hết rồi. Những bóng ma ấy đi về đâu, hãy vẫn còn trú ngụ trong bóng tối u ẩn của giáo đường. Nhưng cho dù có ở đâu đi nữa, Bình thầm cầu nguyện những anh linh thánh thiện đó được cất lên và có chỗ xứng đáng đời đời trên thiên đàng.
Khi mặt trời rải những tia nắng ấm xuống cõi thế gian, thì dân trong ấp cũng đã tìm thấy Bảy An nằm ngất xỉu trong tư thế kinh hoàng giữa một bụi chuối rậm. Bên cạnh gã, hai cha con chú Hai Tốn đang ôm nhau nằm ngủ thật say, môi hé cười nhẹ, dường như đang chìm sâu trong giấc mộng đẹp.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sky River Casino vô cùng vui mừng hào hứng tổ chức chương trình Ăn Tết Nguyên Đán với những giải thưởng thật lớn cho các hội viên Sky River Rewards. Chúng tôi cũng xin kính chúc tất cả Quý Vị được nhiều may mắn và một Năm Giáp Thìn thịnh vượng! Trong dịp đón mừng Năm Mới Âm Lịch năm nay, 'Đội Múa Rồng và Lân Bạch Hạc Leung's White Crane Dragon and Lion Dance Association' đã thực hiện một buổi biểu diễn Múa Lân hào hứng tuyệt vời ở Sky River Casino vào lúc 11:00 AM ngày 11 Tháng Hai. Mọi người tin tưởng rằng những ai tới xem múa lân sẽ được hưởng hạnh vận.
Theo một nghiên cứu mới, có hơn một nửa số hồ lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do biến đổi khí hậu, làm gia tăng mối lo ngại về nước cho nông nghiệp, thủy điện và nhu cầu của con người, theo trang Reuters đưa tin vào 8 tháng 5 năm 2023.
(Tin VOA) - Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 13/9 ra thông cáo lên án Việt Nam tiếp tục lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt những án tù nặng nề với mục tiêu loại trừ mọi tiếng nói chỉ trích của giới ký giả. Trường hợp nhà báo tự do mới nhất bị kết án là ông Lê Anh Hùng với bản án năm năm tù. RSF bày tỏ nỗi kinh sợ về bản án đưa ra trong một phiên tòa thầm lặng xét xử ông Lê Anh Hùng hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua. Ông này bị kết án với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Từ đầu tuần đến nay, cuộc tấn công thần tốc của Ukraine ở phía đông bắc đã khiến quân Nga phải rút lui trong hỗn loạn và mở rộng chiến trường thêm hàng trăm dặm, lấy lại một phần lãnh thổ khu vực đông bắc Kharkiv, quân đội Ukraine giờ đây đã có được vị thế để thực hiện tấn công vào Donbas, lãnh phổ phía đông gồm các vùng công nghiệp mà tổng thống Nga Putin coi là trọng tâm trong cuộc chiến của mình.
Tuần qua, Nước Mỹ chính thức đưa giới tính thứ ba vào thẻ thông hành. Công dân Hoa Kỳ giờ đây có thể chọn đánh dấu giới tính trên sổ thông hành là M (nam), F (nữ) hay X (giới tính khác).
Sau hành động phản đối quả cảm của cô trên truyền hình Nga, nữ phóng viên (nhà báo) Marina Ovsyannikova đã kêu gọi đồng hương của cô hãy đứng lên chống lại cuộc xâm lược Ukraine. Ovsyannikova cho biết trong một cuộc phỏng vấn với "kênh truyền hình Mỹ ABC" hôm Chủ nhật: “Đây là những thời điểm rất đen tối và rất khó khăn và bất kỳ ai có lập trường công dân và muốn lập trường đó được lắng nghe cần phải nói lên tiếng nói của họ”.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cử hành Ngày Quốc tế Nhân Quyền Lần Thứ 73 và Lễ Trao Giải Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 20.
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.