Hôm nay,  

Dịch Kafka (2)

6/6/200300:00:00(View: 4679)
Theo Muirs, thách đố chính mà người dịch Kafka phải đương đầu, là làm sao hòa hợp được (reconcile) trật tự từ của Kafka - lẽ dĩ nhiên là nằm trong luật lệ của văn phạm tiếng Đức - với tiếng Anh, vốn đọc lên nghe có vẻ tự nhiên, và giống như thành ngữ. Với Muirs, từ của Kafka thì "trần trụi và không thể hiểu sai đi được (infallible)... chỉ trong trật tự đó Kafka mới có thể nói điều ông phải nói... Vấn đề chính của chúng ta là tạo ra một thứ văn xuôi tiếng Anh, tự nhiên với tiếng Anh như của Kafka, theo cách riêng của ông, tự nhiên với tiếng Đức."
Không phải dễ, lúc nào cũng viết ra một cách tự nhiên, nhưng với Muirs, vấn đề là phải làm sao cho có sự tươi mát trong cách đặt câu, cộng thêm sự thay đổi từ. Do đó, xem ra thì có vẻ nghịch lý, bản văn dịch của Muirs lại sống động hơn so với nguyên bản của Kafka, bởi vì tiếng Đức mà ông sử dụng là theo kiểu kiềm chế (restrained), có thể nói, một thứ tiếng Đức trung tính, dửng dưng (neutral), và ông là người chẳng hề sợ hãi chuyện lập đi lập lại từ.
[Đây chính là điều mà Kundrea đã chỉ trích những dịch giả bản tiếng Pháp như Vialatte. Bản dịch của ông này thoải mái (librement) đến độ nhà xuất bản Gallimard, vào năm 1976, khi tái bản Kafka trong tủ sách Pléiade, đã tính cho sửa lại những chỗ đã dịch sai, nhưng những 'hậu duệ' của Vialatte phản đối, nhà biên tập là Claude David phải làm những phụ chú ở cuối sách, nhiều đến nỗi độc giả cứ phải lật lại những trang này để theo dõi, và để hiểu bản văn!].
Hơn nữa, mặc dù cách làm chủ tiếng Đức một cách đầy kinh ngạc, mà lại do tự học, của Muirs, mặc dù ông chồng đọc rất rộng những nhà văn Đức và Áo đương thời, nhưng cả hai đều không có được cái background (nền tảng) văn học Đức. Thành thử cách sử dụng điển cố (references) văn học của họ khá bừa bãi. Sau cùng, còn vấn đề môi trường, khu vực sống của người Đức và người Áo, mỗi vùng có một số từ ngữ đặc biệt, mà họ chỉ hiểu đại khái.

Một trong những điều không may đối với hai vợ chồng Muirs, khi dịch Kafka, là hệ thống hành chánh trong ngành tòa án và luật pháp. Thí dụ như trong trong Vụ Án, khi Joseph K. nói với những người tới bắt, anh muốn gọi điện thoại cho "Staatsanwalt Hasterer". Vợ chồng Muirs dịch là "luật sư Hasterer". Những độc giả Anh Mỹ quen thuộc với hệ thống pháp luật của họ, lại nghĩ rằng K. yêu cầu cho gặp luật sư của anh. Sự thực, K. tính bịp những kẻ tới bắt anh, bằng cách dọa kêu điện thoại tới văn phòng khởi tố (prosecutor's office), để thưa họ ra tòa.
Trong Tòa Lâu Đài, bản dịch của Muirs phạm phải hàng trăm những lầm lỗi về chi tiết, nếu xét riêng từng cái, thì không quan trọng, nhưng một khi độc giả gặp quá nhiều sai lầm như vậy, sẽ hoang mang, khiến họ phải tìm về nguyên bản, để kiểm chứng. Vợ chồng Muirs nhận xét, "Đọc Kafka giống như đọc một cuốn sách du lịch, được miêu tả thật chi ly về từng chi tiết về phong tục, cách ăn mặc, đồ dùng của một bộ lạc mới được phát hiện", nhưng khi đụng tới cuộc sống thường nhật mỗi ngày của vùng Trung tâm Âu Châu, họ bị lầm lạc. Thí dụ như "Strohsack" mà K. ngả lưng tại nhà trọ trong làng, không phải bị dâu mà là một cái nệm nhồi dâu.
Hệ thống điện thoại kỳ cục trong tòa lâu đài cũng làm cho họ lúng túng. Với họ, "telephonieren" (gọi điện thoại) là tiếng chuông điện thoại. Khi những viên chức trong Tòa Lâu Đài ngắt bộ phận làm chuông reo, thì Muirs dịch là họ bỏ điện thoại ra ngoài, và khi nối lại hệ thống chuông, họ dịch là treo điện thoại lên.
Nếu hệ thống luật pháp của Cựu Đế quốc Áo xa lạ với Muirs, những hành sử của những viên chức giả tưởng ở trong tòa lâu đài còn xa lạ hơn. Nếu không thêm từ, hoặc dùng chú thích, độc giả Anh Mỹ sẽ không thể hiểu nổi một số câu, đoạn. Đôi chỗ, vợ chồng Muirs còn đoán già đoán non, về những dự tính ở trong đầu tác giả, thay vì trỏ lại với từng câu, từng từ, trong nguyên bản. Đôi chỗ dịch giả không nhìn thấy những gì trước mắt họ, thí dụ "Her blank loveless gaze", Kafka viết, được dịch là "Her cold eyes", bỏ mất tính hàm hồ của từ "loveless". Trên một bình diện rộng lớn hơn, dịch giả đành hy sinh tính trung thực của bản văn, đổi lấy viễn ảnh toàn tác phẩm, khổ một nỗi, viễn ảnh là của họ, không phải của Kafka. Họ, đoán già đoàn non, qua Brod, rằng Kiểm tra viên K. là một kẻ hành hương dễ chịu. Thành thử khi K. nói còn bà vợ và đứa con ở nhà, bí quá, họ đành cắt bỏ người vợ và đứa nhỏ, cho hợp với cú đoánï!
(còn tiếp).
Jennifer Tran

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Westminster (Bình Sa)- - Tại hội trường Thành phố Westminster địa chỉ 8200 Westminster Blvd, Westminster, Nam California, vào lúc 1 giờ chiều Chủ Nhật ngày 3 tháng 11 năm 2019, Đảng Tân Đại Việt đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 55 năm ngày thành lập đảng, nhân dịp nầy một buổi Hội thảo chính trị chuyên đe về: “Bá Linh- Hồng Kông-Việt Nam đã được tổ chức, với sự tham dự của các chính đảng
Dân Biểu Liên Bang Lou Correa và Dân Biểu Liên Bang Alan Lowenthal cùng với Thành Phố Garden Grove sẽ tổ chức buổi lễ thượng kỳ nhân Ngày Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ vào thời gian như sau:
SINH HOẠT CỘNG ĐỒNG:
Hay tin con Tina T mở tiệm ở trung tâm thương maị (shopping) đối điện làm cho chị Julie N tức giận: “Đồ phản phúc, đồ ăn cháo đá bát… “
Hàng ngàn người dân cư ngụ tại một chung cư tại tỉnh Nghê An đã phải di tản vì chung cư bốc cháy dữ dội, theo bản tin của báo Người Đưa Tin cho biết hôm 6 tháng 11.
Mới đó mà đã 37 năm, tính từ khi chúng tôi vượt biển, vượt biên giới hải phận Việt Nam sang Hồng Kông, rồi tới Phi Luật Tân và đến Hoa Kỳ năm 1982.
Cái chết là nỗi sợ lớn nhất trong mọi nỗi sợ của con người. Tuy nhiên, có những người đã gắng vượt qua nỗi sợ, đi cạnh thần chết… để được Sống. Và, cũng có rất nhiều người, vì sợ đã chọn một cuộc sống… như đã Chết.
Tại Thủ đô tị nạn Little Saigon miền Nam California ngày 27 tháng 10/2019, đông đảo Người Việt từ khắp lục địa Bắc Châu Mỹ đã tham dự Đại Hội tôn vinh Chữ Nuớc Ta & vinh danh QLVNCH, tại Hội trường GYMNASIUM 2250 ghế, thành phố Westminster .
Với một lời nguyền: “Thà chết trong thùng xe tải lạnh nơi xứ đang giẫy chết; chứ nhất định không ở lại chịu sống đời ‘Hạnh phúc, Tự lo Độc lập’ trong thiên đường cộng sản.”
Chùa này nằm trên đỉnh núi lửa Asama của Nhật Bản, thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát để tưởng niệm các nạn nhân chết trong trận núi lửa Asama bùng nổ năm 1783.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.