Hỏi (Ông Huỳnh H.V.): Chúng tôi kết hôn tại Úc vào năm 1992 nhưng không có con với nhau. Chúng tôi biết nhau từ Việt Nam, nhưng vì không có con nên chúng tôi đồng ý ly dị vào năm 2000.
Trước khi ly dị chúng tôi đã đồng ý với nhau về việc phân chia tài sản. Tài sản của chúng tôi gồm một căn appartment 2 phòng ngủ khi đó đã trả hết nợ và đang cho mướn, cùng một căn nhà còn thiếu nợ gần 200,000 mà chúng tôi dùng để ở. Tôi đồng ý sang tên căn appartment cho vợ tôi, và vợ tôi đồng ý sang tên căn nhà sang cho tôi, phần thiếu nợ ngân hàng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Ngoài ra tôi còn đồng ý là phải trả cho vợ tôi $300 đồng một tháng trong thời gian 10 năm để vợ tôi có thể dùng số tiền này gởi về cho ba mẹ của cô ta tại Việt Nam.
Để bù lại điều này thì tiền hưu trí của ai người đó giữ. Tôi đồng ý trả $300 hàng tháng cho vợ tôi vì vợ tôi có 2 em còn rất nhỏ tại Việt Nam và cô ta cũng đã gửi tiền về đều đặn từ ngày kết hôn với tôi. Tuy nhiên, trong tờ thỏa thuận chúng tôi ghi số tiền này là số tiền mà tôi đồng ý trả cho vợ tôi như là tiền phụ cấp được quy định theo luật pháp.
Tuy nhiên, trong tờ thỏa thuận có điều khoản là tôi sẽ ngưng trả số tiền này nếu vợ tôi tái giá hoặc sống chung với một người đàn ông khác.
Tôi đã trả đều đặn số tiền $300 đồng hàng tháng cho cô ta đến đầu năm 2003, khi tôi về Việt Nam thăm gia đình và trở lại Úc thì được bạn bè cho biết là cô ta đã quen biết với một người đàn ông. Họ thường đi nhảy đầm và thỉnh thoảng cô ta đã ngủ lại nhà của người này.
Tôi theo dõi cô ta và thấy cô ta thường xuyên đến căn unit của người này. Tôi đã gọi điện thoại và báo cho cô ta biết là tôi sẽ ngưng trả số tiền mà tôi đã đồng ý trả cho cô ta hàng tháng, vì nay cô ta đã quen biết và có quan hệ tình dục với một người đàn ông khác.
Cô ta cho tôi biết là cô ta có quyền có bạn trai, nếu tôi ngưng trả $300 đồng hàng tháng cho cô ta thì cô ta sẽ nhờ tòa án can thiệp và yêu cầu được xét lại việc chia tài sản trước đây.
Xin LS cho biết là tôi có quyền ngưng trả tiền này cho cô ta khi cô ta vi phạm sự thỏa thuận vì đã đi sống chung với một người khác như sự việc vừa nêu trên hay không"
Trả lời: (In the marriage of L. and L. (1984)) “Trong vụ hôn nhân của L và L”. Trong vụ đó, hai vợ chồng đã ly dị vào tháng 5 năm 1979. Vào tháng 6 năm 1979, họ đã đồng ý ký kết một sự thỏa thuận là người chồng sẽ tiếp tục sẽ tiếp tục chu cấp tiền bạc suốt đời cho người vợ hoặc cho đến lúc bà ta tái giá hoặc cho đến lúc bà ta có “quan hệ ngoại hôn vĩnh viễn”[quan hệ ngoại hôn thường xuyên] (a permanent de facto relationship) với một người đàn ông khác.
Trong bản thỏa thuận đó, người chồng đồng ý trả tiền bảo hiểm ý tế ở mức cao nhất cho người vợ, và trả cho bà ta $650 một tháng dựa vào “bảng giá biểu của người tiêu thụ” (consumer price index) [CPI].
Người chồng trả tiền bảo hiểm y tế cho người vợ đến ngày 31 tháng 10 năm 1981, và trả tiền phụ cấp cho bà ta đến ngày 30 tháng 9 năm 1981, rồi sau đó ngưng thực hiện các điều đã cam kết này.
Người vợ vẫn còn sống và vẫn chưa tái giá, nhưng người chồng đã cho rằng trong năm 1978 và cho đến ngày 30 tháng 9 năm 1980 người vợ đã có “quan hệ ngoại hôn thường xuyên” với ông C, và vì thế điều này cho phép người chồng có quyền chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo các điều khoản trong bản thỏa thuận. Ông C đã qua đời vào ngày 30 tháng 9 năm 1980.
Vào tháng 4 năm 1982, người vợ đã tiến hành thủ tục buộc người chồng phải thi hành sự thỏa thuận. Vào năm 1984, bà ta đã sửa đổi đôi chút trong đơn khiếu nại để yêu cầu tòa buộc người chồng phải trả “số tiền thiếu còn tồn đọng lại” (accumulated arrears), và phải thi hành sự thỏa thuận đã ký kết.
Tòa đã đưa ra phán quyết rằng người chồng phải trả cho người vợ: (1) số tiền phụ cấp hàng tháng là $650 như đã thỏa thuận vào năm 1979 và phải thay đổi theo “bảng giá biểu của người tiêu thụ,” (2) “số tiền còn thiếu tồn đọng lại” là $20,510, và (3) người chồng phải trả bảo hiểm y tế cho người vợ ở mức cao nhất như đã đồng ý trong bản thỏa thuận vào năm 1979. Người chồng bèn kháng án chống lại quyết định này.
Thực ra, người vợ gặp ông C lần đầu tiên vào tháng 4 năm 1977. Không rõ là vào lúc đó ông C là người góa vợ hay ly thân với vợ, chỉ biết là ông C sống tại Double Bay với 3 đứa con gái mà không có vợ ông ta ở đó.
Trong lúc đó “Bà L” [người vợ trong vụ kiện hiện tại], sống tại một căn unit trong vùng Darling Point vì mới ly thân với “Ông L” [người chồng trong vụ kiện]. Rồi ông C và bà L quen nhau và thỉnh thoảng xuất hiện trước công chúng. Trong thời gian đó bà L vẫn sông riêng lúc đầu tại Darling Point và sau đó tại Paddington.
Vào tháng 1 năm 1978 ông C bị bệnh ung thư. Ông bèn nhập viện cho đến tháng 2 năm 1978. Bà L đã chăm sóc cho 3 đứa con của ông C và lưu lại tại nhà ông C trong thời gian ông nằm tại bệnh viện. Trong thời gian đó, bà L viếng thăm ông C thường xuyên, lo công việc văn phòng cho ông ta và đưa người mẹ già yếu của ông C vào bệnh viện thăm ông ta, và đưa ông ta về nhà khi ông được xuất viện. Vào tháng 7 năm 1980, ông C đã làm “văn kiện bổ túc vào di chúc” (codicil) và để lại cho bà L $25,000.
Bằng chứng cho thấy là trong thời gian đó bà L thường xuyên ở lại cuối tuần tại nhà ông C. Khi ở lại nhà ông C, bà L và ông C ngủ cùng phòng, bà ta chăm sóc và nấu ăn cho ông C cho đến lúc ông C qua đời vào tháng 9 năm 1980.
Tòa kháng án đã cho rằng vấn đề quan trọng trong vụ này là ý nghĩa của cụm từ “permanent de facto relationship” [quan hệ ngoại hôn thường xuyên].
Sau khi tham khảo tự điển, tòa đã cho rằng “quan hệ ngoại hôn thường xuyên” chỉ hiện hữu nếu hội đủ các yếu tố sau đây: (1) phải có sự quan hệ giữa một người đàn ông và một người đàn bà, (2) phải có ý định quan hệ vĩnh viễn, (3) và các bên đương sự phải sống với nhau như là vợ chồng.
Trong 3 yếu tố vừa nêu, yếu tố thứ nhất đã đạt được. Tòa cũng đã chấp nhận yếu tố thứ hai vì sự quan hệ chỉ chấm dứt theo sau sự qua đời của ông C. Riêng yếu tố thứ 3, tòa đã không đồng ý vì mặc dù có sự sống chung cùng nhà nhưng không nhất thiết là họ đã sống chung với tư cách là vợ chồng. Cuối cùng, tòa đã bác đơn kháng án.
Căn cứ vào phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng nếu ông dựa vào sự quen biết giữa người vợ cũ của ông và bạn trai của cô ta để cho rằng cô ta vi phạm các điều khoản đã ký kết trước đây, và tự động ngưng trả tiền phụ cấp cho cô ta thì tôi e rằng quyết định đó của ông là một quyết định hơi vội vã.
Để tránh sự tranh tụng tôi đề nghị ông nên tiếp tục trả tiền phụ cấp cho đến lúc cô ta có một quyết định rõ ràng hoặc là tái giá hoặc là sống chung công khai với một người đàn ông khác.
Nếu ông còn thắc mắc, xin điện thoại cho chúng tôi hoặc gởi cho chúng tôi bản sao của sự thỏa thuận để chúng tôi có thể giải đáp tường tận hơn.
Trước khi ly dị chúng tôi đã đồng ý với nhau về việc phân chia tài sản. Tài sản của chúng tôi gồm một căn appartment 2 phòng ngủ khi đó đã trả hết nợ và đang cho mướn, cùng một căn nhà còn thiếu nợ gần 200,000 mà chúng tôi dùng để ở. Tôi đồng ý sang tên căn appartment cho vợ tôi, và vợ tôi đồng ý sang tên căn nhà sang cho tôi, phần thiếu nợ ngân hàng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Ngoài ra tôi còn đồng ý là phải trả cho vợ tôi $300 đồng một tháng trong thời gian 10 năm để vợ tôi có thể dùng số tiền này gởi về cho ba mẹ của cô ta tại Việt Nam.
Để bù lại điều này thì tiền hưu trí của ai người đó giữ. Tôi đồng ý trả $300 hàng tháng cho vợ tôi vì vợ tôi có 2 em còn rất nhỏ tại Việt Nam và cô ta cũng đã gửi tiền về đều đặn từ ngày kết hôn với tôi. Tuy nhiên, trong tờ thỏa thuận chúng tôi ghi số tiền này là số tiền mà tôi đồng ý trả cho vợ tôi như là tiền phụ cấp được quy định theo luật pháp.
Tuy nhiên, trong tờ thỏa thuận có điều khoản là tôi sẽ ngưng trả số tiền này nếu vợ tôi tái giá hoặc sống chung với một người đàn ông khác.
Tôi đã trả đều đặn số tiền $300 đồng hàng tháng cho cô ta đến đầu năm 2003, khi tôi về Việt Nam thăm gia đình và trở lại Úc thì được bạn bè cho biết là cô ta đã quen biết với một người đàn ông. Họ thường đi nhảy đầm và thỉnh thoảng cô ta đã ngủ lại nhà của người này.
Tôi theo dõi cô ta và thấy cô ta thường xuyên đến căn unit của người này. Tôi đã gọi điện thoại và báo cho cô ta biết là tôi sẽ ngưng trả số tiền mà tôi đã đồng ý trả cho cô ta hàng tháng, vì nay cô ta đã quen biết và có quan hệ tình dục với một người đàn ông khác.
Cô ta cho tôi biết là cô ta có quyền có bạn trai, nếu tôi ngưng trả $300 đồng hàng tháng cho cô ta thì cô ta sẽ nhờ tòa án can thiệp và yêu cầu được xét lại việc chia tài sản trước đây.
Xin LS cho biết là tôi có quyền ngưng trả tiền này cho cô ta khi cô ta vi phạm sự thỏa thuận vì đã đi sống chung với một người khác như sự việc vừa nêu trên hay không"
Trả lời: (In the marriage of L. and L. (1984)) “Trong vụ hôn nhân của L và L”. Trong vụ đó, hai vợ chồng đã ly dị vào tháng 5 năm 1979. Vào tháng 6 năm 1979, họ đã đồng ý ký kết một sự thỏa thuận là người chồng sẽ tiếp tục sẽ tiếp tục chu cấp tiền bạc suốt đời cho người vợ hoặc cho đến lúc bà ta tái giá hoặc cho đến lúc bà ta có “quan hệ ngoại hôn vĩnh viễn”[quan hệ ngoại hôn thường xuyên] (a permanent de facto relationship) với một người đàn ông khác.
Trong bản thỏa thuận đó, người chồng đồng ý trả tiền bảo hiểm ý tế ở mức cao nhất cho người vợ, và trả cho bà ta $650 một tháng dựa vào “bảng giá biểu của người tiêu thụ” (consumer price index) [CPI].
Người chồng trả tiền bảo hiểm y tế cho người vợ đến ngày 31 tháng 10 năm 1981, và trả tiền phụ cấp cho bà ta đến ngày 30 tháng 9 năm 1981, rồi sau đó ngưng thực hiện các điều đã cam kết này.
Người vợ vẫn còn sống và vẫn chưa tái giá, nhưng người chồng đã cho rằng trong năm 1978 và cho đến ngày 30 tháng 9 năm 1980 người vợ đã có “quan hệ ngoại hôn thường xuyên” với ông C, và vì thế điều này cho phép người chồng có quyền chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo các điều khoản trong bản thỏa thuận. Ông C đã qua đời vào ngày 30 tháng 9 năm 1980.
Vào tháng 4 năm 1982, người vợ đã tiến hành thủ tục buộc người chồng phải thi hành sự thỏa thuận. Vào năm 1984, bà ta đã sửa đổi đôi chút trong đơn khiếu nại để yêu cầu tòa buộc người chồng phải trả “số tiền thiếu còn tồn đọng lại” (accumulated arrears), và phải thi hành sự thỏa thuận đã ký kết.
Tòa đã đưa ra phán quyết rằng người chồng phải trả cho người vợ: (1) số tiền phụ cấp hàng tháng là $650 như đã thỏa thuận vào năm 1979 và phải thay đổi theo “bảng giá biểu của người tiêu thụ,” (2) “số tiền còn thiếu tồn đọng lại” là $20,510, và (3) người chồng phải trả bảo hiểm y tế cho người vợ ở mức cao nhất như đã đồng ý trong bản thỏa thuận vào năm 1979. Người chồng bèn kháng án chống lại quyết định này.
Thực ra, người vợ gặp ông C lần đầu tiên vào tháng 4 năm 1977. Không rõ là vào lúc đó ông C là người góa vợ hay ly thân với vợ, chỉ biết là ông C sống tại Double Bay với 3 đứa con gái mà không có vợ ông ta ở đó.
Trong lúc đó “Bà L” [người vợ trong vụ kiện hiện tại], sống tại một căn unit trong vùng Darling Point vì mới ly thân với “Ông L” [người chồng trong vụ kiện]. Rồi ông C và bà L quen nhau và thỉnh thoảng xuất hiện trước công chúng. Trong thời gian đó bà L vẫn sông riêng lúc đầu tại Darling Point và sau đó tại Paddington.
Vào tháng 1 năm 1978 ông C bị bệnh ung thư. Ông bèn nhập viện cho đến tháng 2 năm 1978. Bà L đã chăm sóc cho 3 đứa con của ông C và lưu lại tại nhà ông C trong thời gian ông nằm tại bệnh viện. Trong thời gian đó, bà L viếng thăm ông C thường xuyên, lo công việc văn phòng cho ông ta và đưa người mẹ già yếu của ông C vào bệnh viện thăm ông ta, và đưa ông ta về nhà khi ông được xuất viện. Vào tháng 7 năm 1980, ông C đã làm “văn kiện bổ túc vào di chúc” (codicil) và để lại cho bà L $25,000.
Bằng chứng cho thấy là trong thời gian đó bà L thường xuyên ở lại cuối tuần tại nhà ông C. Khi ở lại nhà ông C, bà L và ông C ngủ cùng phòng, bà ta chăm sóc và nấu ăn cho ông C cho đến lúc ông C qua đời vào tháng 9 năm 1980.
Tòa kháng án đã cho rằng vấn đề quan trọng trong vụ này là ý nghĩa của cụm từ “permanent de facto relationship” [quan hệ ngoại hôn thường xuyên].
Sau khi tham khảo tự điển, tòa đã cho rằng “quan hệ ngoại hôn thường xuyên” chỉ hiện hữu nếu hội đủ các yếu tố sau đây: (1) phải có sự quan hệ giữa một người đàn ông và một người đàn bà, (2) phải có ý định quan hệ vĩnh viễn, (3) và các bên đương sự phải sống với nhau như là vợ chồng.
Trong 3 yếu tố vừa nêu, yếu tố thứ nhất đã đạt được. Tòa cũng đã chấp nhận yếu tố thứ hai vì sự quan hệ chỉ chấm dứt theo sau sự qua đời của ông C. Riêng yếu tố thứ 3, tòa đã không đồng ý vì mặc dù có sự sống chung cùng nhà nhưng không nhất thiết là họ đã sống chung với tư cách là vợ chồng. Cuối cùng, tòa đã bác đơn kháng án.
Căn cứ vào phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng nếu ông dựa vào sự quen biết giữa người vợ cũ của ông và bạn trai của cô ta để cho rằng cô ta vi phạm các điều khoản đã ký kết trước đây, và tự động ngưng trả tiền phụ cấp cho cô ta thì tôi e rằng quyết định đó của ông là một quyết định hơi vội vã.
Để tránh sự tranh tụng tôi đề nghị ông nên tiếp tục trả tiền phụ cấp cho đến lúc cô ta có một quyết định rõ ràng hoặc là tái giá hoặc là sống chung công khai với một người đàn ông khác.
Nếu ông còn thắc mắc, xin điện thoại cho chúng tôi hoặc gởi cho chúng tôi bản sao của sự thỏa thuận để chúng tôi có thể giải đáp tường tận hơn.
Gửi ý kiến của bạn