Hỏi (bà Trần Ngọc H.T.): Cách đây hơn 1 năm con của tôi đi chơi chung với bạn bè của cháu, sau đó cháu bị bắt, bị buộc và kết tội attempted murder. Cháu bị tòa District Court xử 7 năm và phải ở tù tối thiểu là 4 năm.
Luật sư của chính phủ có giúp cháu để kháng án lên tòa trên, nhưng đơn xin kháng án đã bị bác.
Vì cháu vẫn nghĩ rằng cháu vô tội. Xin LS giúp ý là nếu chúng tôi muốn tiếp tục kháng án thì thời gian phải chờ đợi mất chừng bao lâu, chúng tôi phải trả chi phí LS chừng bao nhiêu, và hy vọng thắng kiện như thế nào"
Trả lời: Để có thể trả lời câu hỏi của bà, chúng tôi xin lược sơ qua về các nguyên tắc căn bản liên hệ đến sự kháng án.
Trong bất cứ vụ xét xử hình sự nào, “bị cáo” (the defendant) đều có quyền chống lại bản án mà tòa đã cưỡng buộc đối với đương sự, với lý do là có sự lầm lẫn trong sự kết tội hoặc vì bản án quá nặng so với những gì mà bị cáo đã phạm phải, dù bản án đó đã được xét xử bởi “Tòa Sơ Thẩm” (the Local Court), “Tòa Án Vùng” (the District Court), hoặc “Tối Cao Pháp Viện [tiểu bang]” (the Supreme Court), hoặc dù bản án đó đã được xét xử bởi “một vị thẩm phán” (a single judge) hoặc với bồi thẩm đoàn.
Các bản án liên hệ đến các “trọng tội” (indictable offence) chẳng hạn như “tội giết người, ngộ sát, hiếp dâm, cướp có vũ trang, bắt cóc và những tội hình sự chủ yếu khác” (murder, manslaughter, rape, armed robbery, kidnapping and other major crimes) được xét xử bởi một vị thẩm phán hoặc cả thẩm phán lẫn bồi thẩm đoàn tại các “Tòa Án Vùng” hoặc “Tối Cao Pháp Viện Tiểu Bang” thì việc kháng án đều có thể được đưa lên “Tòa Kháng Án Hình Sự” (the Court of Criminal Appeal).
Để có thể kháng án lên “Tòa Kháng Án Hình Sự” bị cáo phải trưng dẫn được lý do là: (1) có sự sai lầm về “vấn đề pháp lý” (a question of law); hoặc (2) với sự cho phép của tòa liên hệ đến “vấn đề pháp lý lẫn sự kiện” (a question of mixed law and fact), hoặc bất cứ lý do nào khác mà theo quan điểm của tòa là thỏa đáng để kháng án; hoặc (3) với sự cho phép của tòa liên hệ đến bản án đã đưa ra đối với việc kết tội đương sự. Vì thế, nếu “bị cáo” có thể trưng dẫn được lý do là có sự sai lầm về vấn đề pháp lý, thì việc kháng án là một một quyền hạn đương nhiên của bị cáo được luật pháp bảo vệ mà không cần phải có sự cho phép của tòa.
“Tòa Kháng Án Hình Sự” có thể tha bổng “đương đơn” nếu xét thấy rằng phán quyết của bồi thẩm đoàn là không hợp lý, hoặc nếu xét thấy rằng phán quyết của “vị thẩm phán tọa xử” (a trial judge) là một phán quyết sai lầm về phương diện pháp lý, hoặc bất cứ lý do nào mà tòa xét thấy rằng có “sự xét xử sai lầm” (miscarriage of justice).
“Tòa Kháng Án Hình Sự” cũng có thể hủy bỏ bản án nguyên thủy và thay thế vào đó một bản án nhẹ hơn. Ngoài ra, tòa cũng có quyền quyết định để vụ án phải được xét xử lại.
Nói một cách tổng quát, việc kháng án để chống lại sự kết tội của “Tòa án Vùng” hoặc “Tối Cao Pháp Viện Tiểu Bang” cũng như của bồi thẩm đoàn thường được diễn đạt theo thuật ngữ là có những “sai lầm về pháp lý” (errors of law).
Những sự sai lầm về pháp lý này thường do bởi “lời tóm lược, sự hướng dẫn đối với bồi thẩm đoàn, việc hành xử quyền tùy tiện và các quyết định đối với việc chấp nhận bằng chứng của vị thẩm phán tọa xử” (the trial judge’s summing up, directions to the jury, the exercise of discretions and rulings on the admissibility of evidence).
Theo nguyên tắc thì “sự phản bác đối với lời tóm lược của vị thẩm phán tọa xử” (objection s to the trial judge’s summing up) phải được đưa ra trong lúc xét xử, mặc dầu việc im lặng không chịu phản đối lời tóm lược của vị thẩm phán tọa xử trong lúc xét xử không nhất thiết sẽ là lý do để đơn kháng án bị bác bỏ, tuy nhiên sự phản bác là một trong những yếu tố cần thiết đối với việc kháng án.
Nếu sự kháng án dựa vào lý do liên hệ đến “sự hành xử thẩm quyền tùy tiện tư pháp” (exercise of a judicial discretion) của vị thẩm phán tọa xử thì “Tòa Kháng án Hình Sự” sẽ không can thiệp vào, ngoại trừ tòa nhận thấy rằng sự hành xử quyền tùy tiện đó là sai nguyên tắc và bất công đối với bị cáo.
Vì thế, nếu luật quy định rằng hình phạt tù tối đa về tội cố ý đã thương gây khuyết tật cho người khác là 25 năm mà không quy định hình phạt tối thiểu, và nếu bị cáo bị kết buộc vào tội này và bị tòa xử 8 năm tù, thì tòa kháng án sẽ không can thiệp vào việc hành xử thẩm quyền tùy tiện này của vị thẩm phán tọa xử mặc dầu bản án được xem là quá nặng so với một vài trường hợp khác.
Ngoài ra tất cả “bị cáo” bị kết buộc trọng tội đều có quyền kháng án lên “Tối Cao Pháp Viện Liên Bang” (the High Court).
Điều 35 “Đạo Luật về Tư Pháp 1903” (the Judiciary Act 1903) trao cho Tối Cao Pháp Viện Liên Bang thẩm quyền tư pháp để thụ lý và quyết định tất cả các vụ kháng án từ các phán quyết của các Tối Cao Pháp Viện Tiểu Bang hoặc tất cả các phán quyết của các tòa án khác của tiểu bang hành xử thẩm quyền tư pháp liên bang.
Điều 35(2) quy định rằng việc kháng án sẽ không được thực hiện “ngoại trừ Tối Cao Pháp Viện Liên Bang cho phép đặc biệt để kháng án” (unless the High Court gives special leave to appeal).
Rất ít trường hợp “Tối Cao Pháp Viện Liên Bang” [TCPVLB] cho phép kháng án từ quyết định của của một vị thẩm phán thuộc Tối Cao Pháp Viện Tiểu Bang, vì TCPVLB muốn quyết định đó phải được xét xử lại bởi “Tòa Kháng Án Hình Sự” trước khi có thể xin kháng án lên TCPVLB.
Rất ít các vụ xử án hình sự được phép kháng án lên TCPVLB.
Vào năm 1993, tại tiểu bang NSW, có 32 người nộp đơn để xin phép TCPVLB được kháng án từ các phán quyết của Tòa Kháng Án Hình Sự. Trong số đó chỉ có 10 trường hợp là được phép kháng án và 22 trường hợp đã bị từ chối.
Trong 10 trường hợp được phép kháng án đó có 4 vụ được chấp nhận, 1 vụ bị bác, và 5 vụ tòa quyết định là cần phải tham khảo thêm.
Như trên đã trình bày bà có thể thấy được rằng việc kháng án để được tha bổng hoặc giảm án là một thủ tục không đơn giản như nhiều người lầm tưởng.
Trong trường hợp của con bà, luật sư cần phải xin phép để được kháng án lên “Toàn Tòa” (the Full Court), vì việc xin phép kháng án của con bà để được kháng án từ quyết định của “tòa án vùng” (district court) lên “Tòa Kháng Án Hình Sự” để được quyết định bởi “một vị thẩm phán” (a single judge) đã bị bác.
Trong thư bà không nói rõ là khi bị bác đơn xin kháng án, luật sư của con bà đã tiếp tục nộp đơn xin kháng án tiếp lên “Toàn Tòa” chưa, vì thông thường việc này chỉ được cho phép trong vòng 21 ngày kể từ ngày vị thẩm phán đó đưa ra quyết định.
Bà cần phải liên lạc gấp với luật sư của con bà để biết được là ông ta đã nộp đơn để xin kháng án tiếp về quyết định đó của tòa chưa"
Riêng về chi phí thì việc kháng án lên “Toàn Tòa” bà cần phải chuẩn bị số tiền chừng $5000. Theo thiển ý của chúng tôi, thì nếu bà không được phép của “Toàn Tòa” để kháng án thì bà không nên theo đuổi việc kháng án này lên Tối Cao Pháp Viện Liên Bang để đỡ tốn kém tiền bạc, vì dựa vào bản án trong thư bà có thể thấy được rằng đây chỉ là một sự hành xử quyền tùy tiện tư pháp. Tôi đề nghị bà nên mang hồ sơ của vụ án đến gặp LS của bà để được cố vấn và hướng dẫn tường tận hơn.
Luật sư của chính phủ có giúp cháu để kháng án lên tòa trên, nhưng đơn xin kháng án đã bị bác.
Vì cháu vẫn nghĩ rằng cháu vô tội. Xin LS giúp ý là nếu chúng tôi muốn tiếp tục kháng án thì thời gian phải chờ đợi mất chừng bao lâu, chúng tôi phải trả chi phí LS chừng bao nhiêu, và hy vọng thắng kiện như thế nào"
Trả lời: Để có thể trả lời câu hỏi của bà, chúng tôi xin lược sơ qua về các nguyên tắc căn bản liên hệ đến sự kháng án.
Trong bất cứ vụ xét xử hình sự nào, “bị cáo” (the defendant) đều có quyền chống lại bản án mà tòa đã cưỡng buộc đối với đương sự, với lý do là có sự lầm lẫn trong sự kết tội hoặc vì bản án quá nặng so với những gì mà bị cáo đã phạm phải, dù bản án đó đã được xét xử bởi “Tòa Sơ Thẩm” (the Local Court), “Tòa Án Vùng” (the District Court), hoặc “Tối Cao Pháp Viện [tiểu bang]” (the Supreme Court), hoặc dù bản án đó đã được xét xử bởi “một vị thẩm phán” (a single judge) hoặc với bồi thẩm đoàn.
Các bản án liên hệ đến các “trọng tội” (indictable offence) chẳng hạn như “tội giết người, ngộ sát, hiếp dâm, cướp có vũ trang, bắt cóc và những tội hình sự chủ yếu khác” (murder, manslaughter, rape, armed robbery, kidnapping and other major crimes) được xét xử bởi một vị thẩm phán hoặc cả thẩm phán lẫn bồi thẩm đoàn tại các “Tòa Án Vùng” hoặc “Tối Cao Pháp Viện Tiểu Bang” thì việc kháng án đều có thể được đưa lên “Tòa Kháng Án Hình Sự” (the Court of Criminal Appeal).
Để có thể kháng án lên “Tòa Kháng Án Hình Sự” bị cáo phải trưng dẫn được lý do là: (1) có sự sai lầm về “vấn đề pháp lý” (a question of law); hoặc (2) với sự cho phép của tòa liên hệ đến “vấn đề pháp lý lẫn sự kiện” (a question of mixed law and fact), hoặc bất cứ lý do nào khác mà theo quan điểm của tòa là thỏa đáng để kháng án; hoặc (3) với sự cho phép của tòa liên hệ đến bản án đã đưa ra đối với việc kết tội đương sự. Vì thế, nếu “bị cáo” có thể trưng dẫn được lý do là có sự sai lầm về vấn đề pháp lý, thì việc kháng án là một một quyền hạn đương nhiên của bị cáo được luật pháp bảo vệ mà không cần phải có sự cho phép của tòa.
“Tòa Kháng Án Hình Sự” có thể tha bổng “đương đơn” nếu xét thấy rằng phán quyết của bồi thẩm đoàn là không hợp lý, hoặc nếu xét thấy rằng phán quyết của “vị thẩm phán tọa xử” (a trial judge) là một phán quyết sai lầm về phương diện pháp lý, hoặc bất cứ lý do nào mà tòa xét thấy rằng có “sự xét xử sai lầm” (miscarriage of justice).
“Tòa Kháng Án Hình Sự” cũng có thể hủy bỏ bản án nguyên thủy và thay thế vào đó một bản án nhẹ hơn. Ngoài ra, tòa cũng có quyền quyết định để vụ án phải được xét xử lại.
Nói một cách tổng quát, việc kháng án để chống lại sự kết tội của “Tòa án Vùng” hoặc “Tối Cao Pháp Viện Tiểu Bang” cũng như của bồi thẩm đoàn thường được diễn đạt theo thuật ngữ là có những “sai lầm về pháp lý” (errors of law).
Những sự sai lầm về pháp lý này thường do bởi “lời tóm lược, sự hướng dẫn đối với bồi thẩm đoàn, việc hành xử quyền tùy tiện và các quyết định đối với việc chấp nhận bằng chứng của vị thẩm phán tọa xử” (the trial judge’s summing up, directions to the jury, the exercise of discretions and rulings on the admissibility of evidence).
Theo nguyên tắc thì “sự phản bác đối với lời tóm lược của vị thẩm phán tọa xử” (objection s to the trial judge’s summing up) phải được đưa ra trong lúc xét xử, mặc dầu việc im lặng không chịu phản đối lời tóm lược của vị thẩm phán tọa xử trong lúc xét xử không nhất thiết sẽ là lý do để đơn kháng án bị bác bỏ, tuy nhiên sự phản bác là một trong những yếu tố cần thiết đối với việc kháng án.
Nếu sự kháng án dựa vào lý do liên hệ đến “sự hành xử thẩm quyền tùy tiện tư pháp” (exercise of a judicial discretion) của vị thẩm phán tọa xử thì “Tòa Kháng án Hình Sự” sẽ không can thiệp vào, ngoại trừ tòa nhận thấy rằng sự hành xử quyền tùy tiện đó là sai nguyên tắc và bất công đối với bị cáo.
Vì thế, nếu luật quy định rằng hình phạt tù tối đa về tội cố ý đã thương gây khuyết tật cho người khác là 25 năm mà không quy định hình phạt tối thiểu, và nếu bị cáo bị kết buộc vào tội này và bị tòa xử 8 năm tù, thì tòa kháng án sẽ không can thiệp vào việc hành xử thẩm quyền tùy tiện này của vị thẩm phán tọa xử mặc dầu bản án được xem là quá nặng so với một vài trường hợp khác.
Ngoài ra tất cả “bị cáo” bị kết buộc trọng tội đều có quyền kháng án lên “Tối Cao Pháp Viện Liên Bang” (the High Court).
Điều 35 “Đạo Luật về Tư Pháp 1903” (the Judiciary Act 1903) trao cho Tối Cao Pháp Viện Liên Bang thẩm quyền tư pháp để thụ lý và quyết định tất cả các vụ kháng án từ các phán quyết của các Tối Cao Pháp Viện Tiểu Bang hoặc tất cả các phán quyết của các tòa án khác của tiểu bang hành xử thẩm quyền tư pháp liên bang.
Điều 35(2) quy định rằng việc kháng án sẽ không được thực hiện “ngoại trừ Tối Cao Pháp Viện Liên Bang cho phép đặc biệt để kháng án” (unless the High Court gives special leave to appeal).
Rất ít trường hợp “Tối Cao Pháp Viện Liên Bang” [TCPVLB] cho phép kháng án từ quyết định của của một vị thẩm phán thuộc Tối Cao Pháp Viện Tiểu Bang, vì TCPVLB muốn quyết định đó phải được xét xử lại bởi “Tòa Kháng Án Hình Sự” trước khi có thể xin kháng án lên TCPVLB.
Rất ít các vụ xử án hình sự được phép kháng án lên TCPVLB.
Vào năm 1993, tại tiểu bang NSW, có 32 người nộp đơn để xin phép TCPVLB được kháng án từ các phán quyết của Tòa Kháng Án Hình Sự. Trong số đó chỉ có 10 trường hợp là được phép kháng án và 22 trường hợp đã bị từ chối.
Trong 10 trường hợp được phép kháng án đó có 4 vụ được chấp nhận, 1 vụ bị bác, và 5 vụ tòa quyết định là cần phải tham khảo thêm.
Như trên đã trình bày bà có thể thấy được rằng việc kháng án để được tha bổng hoặc giảm án là một thủ tục không đơn giản như nhiều người lầm tưởng.
Trong trường hợp của con bà, luật sư cần phải xin phép để được kháng án lên “Toàn Tòa” (the Full Court), vì việc xin phép kháng án của con bà để được kháng án từ quyết định của “tòa án vùng” (district court) lên “Tòa Kháng Án Hình Sự” để được quyết định bởi “một vị thẩm phán” (a single judge) đã bị bác.
Trong thư bà không nói rõ là khi bị bác đơn xin kháng án, luật sư của con bà đã tiếp tục nộp đơn xin kháng án tiếp lên “Toàn Tòa” chưa, vì thông thường việc này chỉ được cho phép trong vòng 21 ngày kể từ ngày vị thẩm phán đó đưa ra quyết định.
Bà cần phải liên lạc gấp với luật sư của con bà để biết được là ông ta đã nộp đơn để xin kháng án tiếp về quyết định đó của tòa chưa"
Riêng về chi phí thì việc kháng án lên “Toàn Tòa” bà cần phải chuẩn bị số tiền chừng $5000. Theo thiển ý của chúng tôi, thì nếu bà không được phép của “Toàn Tòa” để kháng án thì bà không nên theo đuổi việc kháng án này lên Tối Cao Pháp Viện Liên Bang để đỡ tốn kém tiền bạc, vì dựa vào bản án trong thư bà có thể thấy được rằng đây chỉ là một sự hành xử quyền tùy tiện tư pháp. Tôi đề nghị bà nên mang hồ sơ của vụ án đến gặp LS của bà để được cố vấn và hướng dẫn tường tận hơn.
Gửi ý kiến của bạn