Giá dầu thô đang tăng. Giá một barrel (31.5 gallons) trong tháng 4/2006 có ngày leo lên trên 70 mỹ kim (cách đây mấy năm khi giá một barrel dầu thô lên 40 mỹ kim, người ta đã cho là một chuyện không thể tưởng tượng). Giá xăng chạy xe cứ theo giá dầu thô mà leo thang. Trung bình tại Hoa Kỳ hiện nay một gallon (3.78 lít) gần 3 mỹ kim. <"xml:namespace prefix = o />
Chuyện giá xăng trở thành thời thượng. Nó đụng đến ngân sách của mỗi gia đình. Đổ đầy một bình xăng thấy xót ruột nhất là khi trả bằng tiền mặt, chưa nói vật giá cũng như mọi dịch vụ khác đều tăng theo giá dầu.
Người ta không biết giá xăng còn lên bao nhiêu nữa. Nhưng nhiều giả thuyết lạc quan được đưa ra để làm yên lòng người tiêu thụ. Thứ nhất là <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />
Nhưng có một giả thuyết bi quan là chủ các công ty dầu (gồm mua dầu thô, tìm tòi những nguồn dầu chưa khai thác, lọc dầu và phân phối ra thị trường) đã làm giá để làm giàu. Ông Rex Tillerson, giám đốc công ti dầu Exxon Mobil nói (The Economist số ngày 29/4 – 5/5/2006, “The Texan sangfroid”, trang 70) chuyện giá xăng là chuyện thị trường tự do, công ty của ông không thể làm giá. Và ông nhấn mạnh rằng chính sách của công ty ông không thay đổi gì từ năm 1998 đến nay. Người tiêu thụ không tin vào sự giải thích này, vì khi giá xăng lên cao, các đại diện dân tại quốc hội Hoa Kỳ nhất là khi tổng thống lên tiếng và đề nghị biện pháp điều tra xem có ai làm giá không thì lại thấy giá xăng giảm đôi chút.
Xăng lên giá còn là chuyện nhạy cảm đối với chính quyền Bush-Cheney vì cả hai ông đều có gốc “xăng nhớt” và gia đình của tổng thống chia một khoảng tiền lời lớn trong công ti dầu Big Oil (The Economist số ngày 29/4 – 5/5/2006, “Premium Pressure, trang 38). Tổng thống Bush và những phụ tá cực hữu của ông đã quyết định đánh Iraq sau vụ khủng bố 911 vài ngày cũng chỉ vì Iraq là một kho dầu lớn của thế giới cần kiểm soát (theo Cobra II, The Inside Story of the Invasion and Occupation of Iraq của Michael R. Gordon và Trung tướng Thủy quân Lục chiến hồi hưu Bernard E. Trainor, Pantheon Books, New York xuất bản 2006).
Rút kinh nghiệm về những khó khăn trước mắt do cuộc chiến
Giá dầu thô trên thế giới, do phản ứng tương quan qua lại giữa các quốc gia sản xuất dầu và dùng dầu và nhất là phản ứng của chính phủ Hoa Kỳ, có thể lên lên xuống xuống chút đỉnh. Nhưng hiện tượng này nếu diễn ra cũng chỉ làm “rối trí” người tiêu thụ. Câu hỏi căn bản là thật sự phải làm gì để giải quyết nhu cầu năng lượng" Căn bản vì (theo nhà bình luận Thomas L. Friedman của tờ New York Times nêu ra trong bài viết “The first Law of Petropolitics” đăng trên tạp chí Foreign Policy số tháng 5 & 6/2006, trang 26 đến trang 36) vấn đề dầu thô quan hệ đến tình hình dân chủ trên thế giới một cách chặt chẽ.
Ông Friedman nói rằng điều làm ông chú ý khi nghiên cứu các biến chuyển chính trị tại vùng Vịnh Ba Tư là nước đầu tiên tổ chức bầu cử cho phép phụ nữ ra ứng cử và đi bầu và sửa đổi luật lao động (để cho dân trong nước dễ kiếm việc hơn) là nước Bahrain, trùng hợp vào lúc Bahrain hết dầu.
Nghiên cứu sâu hơn, ông Friedman thấy sự liên quan giữa dầu hỏa và dân chủ chặt chẽ đến nổi ông không thể nói gì khác hơn là xem nó như một định luật, mà ông gọi là “The first Law of Petropolitics” (định luật thứ nhất của chính trị dầu hỏa). Ông nói nước nào có nhiều dầu hỏa, nước đó càng thiếu dân chủ từ tự do ngôn luận, bầu cử ngay thẳng, cho đến tư pháp độc lập. Trái lại nước nào không có dầu, nghĩa là không có tiền cho không bởi thiên nhiên, nước đó càng dễ tiến tới dân chủ. Người cầm quyền thấy cần phải lo lắng về giáo dục để dân có khả năng phát triển và đối ngoại một cách mềm dẽo để lôi hút đầu tư.
Ông Friedman đưa ra một danh từ mới gọi là “petrolist state” để định nghĩa một nước mà nguồn lợi chính để xuất cảng và chính yếu của GDP là do dầu thô và là nước không có các định chế dân chủ rõ ràng và người lãnh đạo có khuynh hướng độc tài. Danh sách petrolist states của ông Friedman khá dài:
Theo ông Friedman, định luật thứ nhất của dầu hỏa không khác cái mà trong thập niên 1960 người ta gọi là “Dutch Disease” (hay là bệnh Hòa Lan). Trong thập niên 1960 Hòa Lan khám phá ra một túi khí đốt khổng lồ trong nước, đồng thời với dầu hỏa, vàng và bạch kim. Đồng tiền Hòa Lan trở nên cao giá và hàng hóa sản xuất không bán được trong khi hành nhập cảng rẻ như bèo. Kết quả là kỹ nghệ của Hòa Lan hoàn toàn ngưng trệ. Cái hiện tượng chung được ông Friedman ghi nhận như là hiện tượng khi có sẵn tiền trời cho (do dầu thô), người lãnh đạo nghĩ đến cách kiểm soát nguồn dầu để bỏ tiền vào túi mình thay vì lo việc giáo dục quần chúng và xây dựng dân chủ.
Chính phủ các nước giàu nhờ dầu thô thường dùng tiền dầu để giải quyết các vấn đề xã hội mà không cần đánh thuế người dân, và do đó họ nghĩ rằng người dân không cần có ý kiến hay quyền lên tiếng trong bất cứ vấn đề gì. Tại các nước khác (nhất là tại Hoa Kỳ) ngân sách quốc gia do tiền thuế của dân nên dân có quyền phê bình khi chính phủ chi tiêu gì mà dân không bằng lòng vì đối với họ nhiệm vụ đóng thuế cho họ quyền ăn nói về các vấn đề của đất nước. Ảnh hưởng sau cùng là người cầm quyền nắm quyền hành trong tay từ đời này sang đời nọ trong một chế độ gần như gia đình trị thường có khuynh hướng ngăn cản các tổ chức chính trị đối lập thành hình. Những người cầm quyền có thừa khả năng tài chánh để ưu đãi tướng lãnh, sĩ quan và lực lượng công an và các chức vụ quan trọng đều được giao phó trong tay những người thân tín trong gia đình để bảo vệ quyền hành nếu có sự tranh chấp và đòi hỏi thật sự từ người dân. Một quốc gia (có dầu) như vậy sẽ không có nhu cầu cải tổ xã hội và một hệ thống giáo dục tốt để tự lập và thăng tiến. Đó là điều giới quan sát không ngạc nhiên khi thấy tại sao các nước Trung đông và vài nước Phi châu (như Nigeria) có nhiều dầu hỏa người dân vẫn sống trong sự đàn áp và không có một chút quyền hành chính trị trong tay.
Định luật của ông Friedman cho thấy sự xuất hiện thế lực của một “axis of oil” hay một “trục dầu” (OPEC là một trục dầu") và một sự quan hệ giữa giá dầu thô trên thế giới và tình hình dân chủ chung. Một điều không ai có thể nghi ngờ là với giá dầu thô đang lên cao tình hình dân chủ trên thế giới càng bi thảm và lối giải quyết các vấn đề trên thế giới qua luật lệ quốc tế sẽ không còn hiệu lực. Không nói chuyện
Ông Thomas Friedman đã dùng sự quan hệ giữa giá dầu thô và tình hình dân chủ tại
Trường hợp điển hình khác là tình hình chính trị tại Liên bang Nga. Khi Liên bang Xô viết sụp đổ vào cuối năm 1991 giá dầu thô gần 17 hay 18 mỹ kim một barrel. Chương trình cải tổ kinh tế cấp tốc để cứu vãn Liên bang Nga của Boris Yeltin được thực hiện vào thời gian này. Khi Validimir Putin đắc cử tổng thống vào năm 2000 giá dầu thô còn trong vòng 20 mỹ kim nên Putin còn tỏ ra một người mềm mỏng dân chủ. Nhưng ba năm sau khi dầu thô lên 30 mỹ kim một barrel, Putin bắt đầu lấy lại các quyền tự do ban hành trước đó, và đặc biệt là bắt bỏ tù ông Khodorkovsky, chủ một công ty dầu có ý định dùng khả năng tài chánh của mình để tranh giành quyền hành chính trị với Putin. Và khi giá dầu lên 60 mỹ kim một barrel, Putin hiện nguyên hình là một nhà độc tài.
Nói đến nguyên nhân giá dầu thô trên thế giới tăng từ năm 2001, trong giới hạn 20 – 40 mỹ kim một barrel qua giới hạn 40- 60 mỹ kim một barrel, đa số các nhà chính trị cho là do nhu cầu tiêu thụ năng lượng gia tăng của gần 3 tỉ người Trung hoa, Ấn độ, Brazil và Liên bang Nga khi các quốc gia này đang trên đà phát triển. Điều này chỉ đúng một phần. Cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 của al-Qaeda và tiếp theo là hai cuộc tấn công của Hoa Kỳ và đồng minh vào Afghanistan và Iraq làm cho tình hình của vùng Trung đông, nguồn dầu thô của thế giới, trở nên bất an cũng là một nguyên nhân quan trọng khác. Các quốc gia Trung đông, nếu là đồng minh với Hoa Kỳ, cần tiền để tăng cường an ninh chống khủng bố. Nếu thuộc phe chống đối Hoa Kỳ thì cũng cần tiền để tự bảo vệ trước sự đe dọa của Hoa Kỳ.
Còn nhớ vào đầu thập niên 1990 giá dầu thô xuống rất thấp các nước sản xuất dầu như Kuwait, Saudi Arabia, Ai Cập bắt đầu nói đến cải tổ kinh tế, và trong 10 năm từ 1991 đến 2000 trên thế giới có một phong trào cải tổ dân chủ. Nhưng từ cuộc khủng bố 2001 đến nay trào lưu dân chủ cứ đi xuống với giá dầu thô ngày càng cao. Theo ông Friedman thế giới sẽ không bị đe dọa bởi một cuộc chiến tranh như cuộc chiến tranh lạnh, nhưng sẽ không có một sức mạnh nào có thể kiến tạo dân chủ trên thế giới này chừng nào Hoa Kỳ còn lệ thuộc quá nặng vào nguồn năng lượng chính là dầu thô của các nuớc khác. Chừng nào ngày đó còn, khả năng can thiệp của Hoa Kỳ để kiến tạo dân chủ như tổng thống Bush mong ước vẫn chỉ là một ước mơ.
Ông Friedman kết luận bài viết của ông một cách khẳng định rằng:
“Mặc dù Hoa Kỳ không có khả năng can thiệp vào sự sản xuất (hay không sản xuất) của nước khác, Hoa Kỳ có thể làm thay đổi giá dầu thô trên thế giới bằng cách thay đổi nguồn năng lượng Hoa Kỳ cần. Hoa Kỳ đang dùng 25% dầu thô đang được sản xuất trên thế giới nên việc tìm những nguồn năng lượng thay thế không còn là một ý tưởng viễn vông của những mẫu người lý tưởng mong muốn một môi trường trong sạch mà là một kế hoạch an ninh và sinh tử của quốc gia.
“Vì vậy chương trình phát huy dân chủ trên thế giới của Hoa Kỳ nếu muốn thành công phải bao gồm cả chương trình tìm nguồn năng lượng thay thế. Những nhà làm chính sách ngoại giao hay tài chánh quốc tế nếu thật tâm muốn kiến tạo dân chủ phải còn là những nhà môi trường học.”
Ba vấn đề lớn có lẽ Hoa Kỳ quan tâm nhất hiện nay là cuộc chiến chống khủng bố, cuộc chiến tranh Iraq, và cuộc đối đầu tương lai với Trung quốc trong thế kỷ này. Cả ba vấn đề đều liên hệ đến dầu. Thái độ của Hoa Kỳ đối với cuộc thăm viếng chính thức Hoa Kỳ đầu tiên của ông Hồ Cẩm Đào, tân chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung quốc giữa tháng 4/2006 vừa qua tỏ ra không mấy vồn vã vì Trung quốc đang có chương trình tranh giành những nguồn đang cung cấp dầu hỏa cho Hoa Kỳ (theo The Washington Post National Weekly Edition số ngày 24/4-30/4/2006 “Energy Quest” của Steven Mufson, trang 20).
Nếu thế giới (nhất là Hoa Kỳ) giải quyết được vấn đề năng lượng thay thế và không cần đến dầu thô nữa thì dầu thô chỉ còn là một thứ nước lã và cục diện chính trị thế giới sẽ có thể được thay đổi một cách căn bản. Các nước Hồi giáo Trung đông không còn thừa tiền để giúp ngầm các tổ chức khủng bố. Các nhà lãnh đạo tại đó phải lo dân chủ hóa đất nước nếu không sẽ bị lật đổ giúp tình hình ở đó dịu đi. Và sau cùng sự căng thẳng với Trung quốc cũng có cơ giảm cường độ, cho dù Trung quốc vẫn không bỏ mộng bá chủ thế giới ấp ủ từ ngàn xưa.
Trần Bình
May 6, 2006
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com